Trong tác phẩm tự sự, trần thuật là thành phần lời của tác giả, của người trần thuật…(1). Ngôn ngữ trần thuật do vậy là nơi bộc lộ rõ ý thức sử dụng ngôn ngữ có chủ ý của nhà văn. Khảo sát ngôn ngữ trần thuật (đặc biệt là những tính chất thường gặp của ngôn ngữ truyện ngắn hiện đại trong
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC LÀ GÌ?Phương pháp dạy học tích cựclà các biện pháp, cách thức hành động của giáo viên và học sinh trong trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học, Các kỹ thuật dạy học tích cực chưa phải là cách dạy học tích cực độc lập mà chỉ
Phẫu thuật nội soi tạo hình dạ dày ống đứng điều trị béo phì là cách điều trị đa mô thức. Phương pháp này không phải chỉ có phẫu thuật mà kèm theo đó là các bài tập vật lý trị liệu cũng như sự theo dõi, hướng dẫn lâu dài của chuyên gia dinh dưỡng.
TÓM TẮT. Trong bài viết này, chúng tôi tìm hiểu phương thức trần thuật chủ quan trong truyện ngắn thuộc khuynh hướng yêu nước ở đô thị miền Nam giai đoạn 1965-1975. Đây là phương thức trần thuật chiếm tỉ lệ khá lớn, cơ cấu khá đa dạng và góp phần quan trọng vào
Dưới đây là bài viết câu trần thuật là gì cho ví dụ hay nhất được bình chọn. Chuyển đến nội dung. Nạp tiền cf68 tại CF68 nhanh chóng với nhiều phương thức; Bóng đá tại Sky88 dễ chơi, cơ hội trúng thưởng lớn; May88 Vip hướng dẫn soi kèo châu Á chuẩn nhất mọi
Bạn đang xem: Tuyển sinh 2022: 9 trường thuộc Đại học Đà Nẵng tuyển 14.550 chỉ tiêu tại thpttranhungdao.edu.vn (Trường THPT Trần Hưng Đạo) - Trong kỳ tuyển sinh 2022, 9 trường đại học trực thuộc Đại học Đà Nẵng dự kiến tuyển 14.550 thí sinh. Đại học Bách khoa đại học Kinh tế Đại Đọc tiếp
Giải hệ phương trình bậc nhất bằng phương pháp Cramer. Phương pháp Cramer. Các bạn có thể xem thêm phương pháp Cramer tại đây. Từ đây ta chỉ cần tính các định thức D, Dx, Dy là xong rồi phải không nào. Nếu định thức D = 0 thì phương trình hoặc vô nghiệm hoặc vô số
adgJdT. Nội dung của khóa luận được triển khai thành ba chương chương 1 hành trình sáng tạo của Mạc Ngôn; chương 2 phương thức trần thuật; chương 3 giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật. TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI ĐINH THỊ THÚY NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT THẬP TAM BỘ CỦA MẠC NGÔN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Ngành Sư phạm Ngữ Văn Hệ đào tạo chính quy Khóa học 2013 – 2015 Đồng Hới, 2015 TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI ĐINH THỊ THÚY NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT THẬP TAM BỘ CỦA MẠC NGÔN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Ngành Sư phạm Ngữ Văn Hệ đào tạo chính quy Khóa học 2013 – 2015 Người hướng dẫn Nguyễn Thị Quế Thanh Đồng Hới, 2015 LỜI CẢM ƠN Xin trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo Nguyễn Thị Quế Thanh, người đã tận tình hướng dẫn tôi thực hiện và hoàn thành khóa luận này. Xin bày tỏ lòng biết ơn quý thầy cô giáo đã giảng dạy và đóng góp những ý kiến quý báu cho tôi trong quá trình học tập. Xin chân thành cảm ơn khoa Khoa học Xã hội, Phòng Đào tạo, Trường Đại học Quảng Bình đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi học tập và nghiên cứu. Cảm ơn những người thân yêu trong gia đình, bạn bè đã động viên giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và thực hiện khóa luận. Tác giả Đinh Thị Thúy LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và và kết quả nghiên cứu nêu trong khóa luận là trung thực, được các đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố trong bất kì một công trình nào khác. Tác giả Đinh Thị Thúy MỤC LỤC MỞ ĐẦU. 1 do chọn đề tài 1 sử vấn đề 2 tượng và phạm vi nghiên cứu . 6 . Đối tượng nghiên cứu. .
Lượt xem 589 THE NARRATIVE POINT OF VIEW – DISCOURSEIN THE SHORT STORIES OF CONTEMPORARY VIETNAMESEFEMALE WRITERS Tác giả bài viết LÊ THỊ THANH XUÂNTrường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế TÓM TẮT Trong xã hội hiện đại, viết và đấu tranh cho quyền lợi và quyền bình đẳng của phụ nữ ngày càng phát triển mạnh mẽ, được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa. Văn học thời kỳ đổi mới, các tác phẩm có chất lượng ngày càng phát triển. Góp phần làm nên thành công cho nền văn học nước nhà có thể kể đến các nhà văn nữ đã tạo được tiếng vang như Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phạm Thị Hoài, Trần Thùy Mai, Nguyễn Ngọc Tư… Đóng góp nên sự thành công đó không thể không nhắc đến yếu tố nghệ thuật điểm nhìn trần thuật điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài trong một số tác phẩm tiêu biểu của các nhà văn nữ. Bài viết đi sâu phân tích những đặc trưng nghệ thuật về điểm nhìn trần thuật để thấy rõ dấu ấn đặc biệt về xu hướng “nữ quyền hóa”, một chủ đề đang được quan tâm hiện nay. Từ khóa Điểm nhìn trần thuật, nhà văn nữ, nữ quyền, diễn ngôn, xu hướng. ABSTRACT In modern society, writing and fighting for women’s rights and equality is growing strongly, which is expressed in all fields of politics, economy and culture. Inliterature of the renovation period, the quality of works are growing. Contributing to the success of the country’s literature, we can mention the famous female writers such as Y Ban, Nguyen Thi Thu Hue, Pham Thi Hoai, Tran Thuy Mai, Nguyen Ngoc Tu… Contributing to that success, we cannot fail to mention the artistic elements the narrative point of view the internal point of view and the view of the outside in some typical works of female writers. The article deeply analyzes the artistic characteristics of the narrative point of view to clearly see the special imprint on the “feminist” trend, the topic that is currently of great interest. Keywords The narrative point of view, female writer, feminist, discourse, trend. xx x 1. Mở đầu Có thể thấy rằng, văn xuôi nữ hiện đại ngày càng quan tâm đến các vấn đề thuộc về quyền lợi và bình đẳng của người phụ nữ. Do vậy, vấn đề diễn ngôn về giới càng được quan tâm và là chủ đề đang “hot” hiện nay. Hélène Cixous là người đầu tiên khai phá “lối viết nữ” trong văn chương L’écriture féminine, theo bà giữa giới tính và diễn ngôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, diễn ngôn còn đóng vai trò nâng tầm giới tính. Trong nhiều tiểu luận của mình, bà khẳng định “Phụ nữ phải có hệ thống ngôn ngữ riêng phù hợp với bản thể giới tính của họ, để biểu đạt những đặc thù riêng biệt của mình mà người khác giới không có” Hồ Khánh Vân, 2017, Đó chính là tuyên ngôn về “diễn ngôn” trên địa hạt văn chương của giới nữ. Tiếng nói đấu tranh của các nhà văn nữ cũng chính là khát vọng chính đáng về hạnh phúc của người phụ nữ, họ xứng đáng được nhiều hơn thế. Nói như Thái Phan Vàng Anh thì “Sự lên tiếng của các nhà văn nữ là làm nên một diện mạo khác, riêng so với nam giới” Thái Phan Vàng Anh, 2016, 2. Cơ sở lý luận Hình ảnh nhân vật/ hình tượng nữ giới-chủ thể trong các tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại xuất hiện nhiều và đã tạo thành “cơn sốt” cho những người yêu thích văn chương. Có lẽ nét đẹp từ văn phong, ngôn ngữ cùng những đề tài, chủ đề gần gũi cùng cảm xúc tinh tế, những trải nghiệm không thể có ở “giới thứ nhất” chính là “thỏi nam châm” thu hút những độc giả khó tính nhất. Nói như Y Ban thì “Người phụ nữ độc lập, tự chủ hơn. Họ có xu hướng sống cho bản thân mình, chiều chuộng cảm xúc của chính mình. Khát vọng hạnh phúc của người phụ nữ thể hiện ở khát vọng chinh phục người đàn ông. Và chinh phục người khác giới cũng chính là chinh phục chính mình” Y Ban, 2011, Đa phần các tác phẩm đều nói về người phụ nữ, từ cách đặt tiêu đề và âm hưởng tự sự học cũng như hình thức tự thuật trong từng tác phẩm. Vấn đề về nữ quyền Thuật ngữ “Nữ quyền” có thể được hiểu qua những bình diện sau – Về phương diện lý luận nữ quyền được xem như là một tiền đề lý thuyết đấu tranh cho sự bình đẳng của giới nữ. – Về phương diện hoạt động thực tiễn phong trào nữ quyền đóng vai trò quan trọng giành quyền cho phụ nữ trên các phương diện chính trị, kinh tế, đặc biệt là việc bảo vệ và đề cập đến các quyền cơ bản của con người. – Về góc độ nghề nghiệp nữ quyền đấu tranh hướng tới các mục tiêu bình đẳng Nam và Nữ bình đẳng giới trong hoạt động nghề nghiệp xã hội, đoàn thể và cá nhân. Có thể nói, khái niệm “Nữ quyền” luôn gắn liền với ý thức giới và bình đẳng giới, nhân vị giới và tính mẫu của người phụ nữ. Tư tưởng nữ quyền chính là tư tưởng nữ học quan trọng, mở ra tiền đề mới để người phụ nữ tham gia vào các công việc khác trong xã hội, không còn quẩn quanh trong các công việc bếp núc đơn điệu, tẻ nhạt thường ngày nữa. Cũng chính từ đó, người phụ nữ có tiếng nói trong xã hội thì các quyền lợi khác về chính trị, hôn nhân, lao động sẽ được bảo đảm và vững chắc hơn. Ngôi trần thuật và điểm nhìn về giới Nhắc đến diễn ngôn trần thuật về giới, không thể bỏ qua điểm nhìn trần thuật từ giới nữ điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài. Ngôi trần thuật thường là ngôi thứ ba hoặc ngôi thứ nhất tác giả xưng “tôi”, tạo cảm giác thân quen, kể chuyện về cuộc đời, số phận, những bi kịch và sự đấu tranh vươn lên khẳng định cái tôi bản ngã của người phụ nữ. Văn phong gần gũi, bình dị, mộc mạc như chính tính cách và tâm hồn người phụ nữ Việt. Điểm nhìn chính là các nhà văn nữ, những người cùng giới với tâm hồn nhạy cảm, phong phú và tràn đầy niềm tin yêu, sự cảm thông sâu sắc về giới. Ngôn ngữ, giọng điệu của các nhà văn nữ rất đa dạng như hoài nghi, chất vấn, triết lý, mỉa mai, châm biếm, có khi lại là những tâm sự trữ tình, chất chứa tình cảm sâu nặng… Nhân vật nữ có sự chuyển biến linh hoạt giữa đối thoại và độc thoại nội tâm như chính tiếng lòng của các nhà văn nữ-cũng chính là khát vọng luôn hướng đến những giá trị tốt đẹp của người phụ nữ, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Điểm nhìn trần thuật là một vấn đề quan trọng trong phương thức nghệ thuật bởi theo Trần Đình Sử trong Giáo trình dẫn luận thi pháp học 1998 thì “Điểm nhìn văn bản là phương thức phát ngôn trình bày, miêu tả phù hợp với cách nhìn, cách cảm thụ thế giới của tác giả. Khái niệm điểm nhìn mang tính ẩn dụ, bao gồm mọi nhận thức, đánh giá, cảm thụ của chủ thể đối với thế giới” Nhiều tác giả, 2012, Điểm nhìn trần thuật cũng chính là cách thức kể chuyện với những sáng tạo, hư cấu cá nhân của tác giả về những lời độc thoại, đối thoại, cách sắp xếp và phát triển sự kiện trong tác phẩm. Theo tác giả Phạm Ngọc Hiển 2018, điểm nhìn trần thuật “có liên quan tới tất cả các thành tố khác trong tác phẩm. Ở mức độ cao hơn, nhiều tác giả còn xây dựng “chiến lược” điểm nhìn, nhằm tạo ra một tác phẩm mà trong đó điểm nhìn trở thành “nhân vật” chính” Phạm Ngọc Hiển, 2018, Có rất nhiều dạng điểm nhìn khác nhau nhưng trong giới hạn bài viết, chúng tôi chỉ đi sâu phân tích làm rõ hai phạm trù cơ bản là điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài về giới để thấy rõ tinh thần nữ quyền trong văn xuôi đương đại Việt Nam. 3. Phương pháp nghiên cứu Để tiến hành nghiên cứu đề tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp chủ yếu sau phương pháp so sánh, khảo sát, thống kê và phương pháp cấu trúc, hệ thống. – Phương pháp so sánh với phương pháp này, chúng tôi tham khảo tài liệu về các tác phẩm của các tác giả nữ có sự đối chiếu với truyện ngắn của các nhà văn nam viết về giới và thể hiện được điểm nhìn trần thuật bao gồm điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài. Sau đó, chúng tôi tiến hành phân tích nội dung diễn ngôn về giới để thấy rõ sự khác nhau trong cách thức biểu hiện của hai giới. – Phương pháp khảo sát, thống kê với phương pháp này, chúng tôi tiến hành khảo sát, thống kê số lượng về ngôi và điểm nhìn về giới trong một số tác phẩm tiêu biểu. – Phương pháp cấu trúc, hệ thống từ sự tổng hợp, phân tích ở trên, chúng tôi tiến hành phương pháp cấu trúc, hệ thống đểrút ra những đánh giá, nhận định chung về các vấn đề liên quan đến đề tài nghiên cứu. Vì đề tài nghiên cứu chỉ giới hạn trong phạm vi bài báo nên số lượng tác phẩm chúng tôi lựa chọn để thống kê, khảo sát, đó là những tác phẩm tiêu biểu nhưng vẫn thể hiện đầy đủ tinh thần về “giới thứ hai”, có ảnh hưởng rất lớn trong khuynh hướng sáng tác phê bình văn học nữ quyền hiện đại. 4. Kết quả nghiên cứu Điểm nhìn bên trong Điểm nhìn bên trong với điểm nhìn là nhân vật trong tác phẩm, người kể chuyện thường xưng “tôi” hoặc có thể đứng ở ngôi thứ ba để kể chuyện. Với điểm nhìn bên trong thì không hề có khoảng cách giữa nhân vật và người kể chuyện. Bởi vì người kể chuyện chính là nhân vật, người kể chuyện như “hóa thân” vào nhân vật, thấu hiểu mọi suy nghĩ, tính cách của nhân vật. Thế giới nội tâm nhân vật được thể hiện đa chiều nhất thông qua điểm nhìn bên trong. Đây cũng chính là sự “hòa quyện” của tận cùng nỗi đau cùng với nhân vật. Nhân vật “tôi” đóng vai trò là chủ thể phát ngôn cũng chính là người kể chuyện, dẫn dắt câu chuyện theo những diễn biến tâm lý của nhân vật. Truyện Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư là một ví dụ như thế “Sẽ còn bao nhiêu người nữa được cha tôi cho nếm thử niềm đau kia, tôi tự hỏi mình khi nhìn vào người đàn ông vào tuổi bốn mươi, quyến rũ từ cái cười, từ câu nói, ánh nhìn thăm thẳm, ngọt ngào. Trời ơi, trừ chị em tôi, không ai thấy được đằng sau khuôn mặt chữ điền ngời ngợi đó là một hố sâu đen thăm thẳm, bến bờ mờ mịt, chơi vơi, dễ hụt chân” Nguyễn Ngọc Tư, 2010, Có khi là nỗi đau bất tận của người phụ nữ không có lối thoát đối với các nhân vật của Y Ban “Đầu óc tôi mụ mị. Tôi muốn chết. Tôi chết thì ai chăm con gái tôi. Nó cũng là con gái. Tôi khóc. Thật may tôi khóc được” Y Ban, 2006, Hay có khi còn là độc thoại nội tâm ẩn chứa khao khát sống, hạnh phúc và được yêu thương của một manơcanh trong truyện Sống của Mai Thy “Chàng đang cười, và tôi thấy cả thế giới của mình qua cánh tay của chính tôi?! Tại sao tôi không thấy đau chút nào? Bóng tối chợt ập đến. Mọi âm thanh, mọi cảm giác thành xa xôi. Tôi đang ở đâu? Tôi muốn trở về thế giới tràn ngập ánh sáng của mình. Hay đây mới chính là thế giới của tôi?! Tôi là ai. Không, tôi là cái gì?!…” Mai Thy, 2015, Có thể thấy rằng, phương thức kể chuyện với ngôi thứ nhất, nhân vật xưng “tôi” đã được “phổ quát hóa” trong hầu hết các truyện ngắn nữ Việt Nam hiện đại. Như nhà văn Y Ban trong một lần phỏng vấn, đã xác tín “Tôi hay kể chuyện ở ngôi thứ nhất, để tự đặt mình vào vị trí của những nhân vật người đàn bà trong truyện. Tôi cảm thấy, điều đó cho phép tôi khai thác nội tâm nhân vật một cách triệt để và biểu hiện nó một cách sâu sắc hơn. Với những truyện ngắn có cốt truyện nặng về tâm lý, tôi thường kể ở ngôi thứ nhất” Y Ban, 2011, “Tôi” cũng chính là đại diện cho tiếng nói của các nhà văn nữ trẻ đấu tranh bảo vệ quyền bình đẳng của người phụ nữ trên nhiều phương diện. Ý thức giới và tinh thần nữ quyền được nâng cao qua mỗi tác phẩm của các nhà văn nữ bởi ý nghĩa nhân văn cao cả. Những câu chuyện được kể / tự thuật bởi chính nhân vật “tôi” đã đem đến cho người đọc một bức tranh muôn màu sắc về xúc cảm. Tự thuật là một phương thức nghệ thuật được sử dụng chủ yếu trong văn xuôi bao gồm cả truyện ngắn và tiểu thuyết “Trong quá trình tự thuật, người phụ nữ viết văn vừa bộc lộ và thể hiện bản thân, vừa sáng tạo ra chính mình thông qua thế giới hình tượng. Tự thuật vừa là khởi nguồn, là chất liệu của sáng tạo, đồng thời cũng vừa là đích đến, là sản phẩm sinh ra từ hành trình sáng tạo ấy” Hồ Khánh Vân, 2017, Đó là cái “tôi” cá tính dù biết phải đối diện với nhiều thị phi “Cái gì cũng có giá của nó. Tôi không muốn sống trong cuộc sống gia đình tù túng thì tôi sống một mình với con. Nhưng tôi sợ sự cô đơn thì tôi phải có bạn tình. Tôi yêu một người đàn ông có vợ. Tôi chấp nhận sự chia sẻ đó” Y Ban, 2005, Cái “tôi” đầy đam mê, cuồng nhiệt ái tình nhưng không nhuốm sắc màu nhục dục mà văn phong lại rất tự nhiên, phóng khoáng “Tôi muốn áp môi tôi lên môi chàng, nhưng tôi sợ chàng thức giấc và như thế khoảnh khắc kỳ diệu ấy sẽ biến tan đi. Nhưng cơn đói khát chàng đã làm tôi dừng lại ở đó… Tay tôi run rẩy lần cởi những chiếc khuy áo màu cánh gián, từng chiếc, từng chiếc một…” Lê Thị Hoài Nam, 2001, Cái “tôi” đầy đau đớn, điên dại trong một cuộc hôn nhân không có tình yêu, hạnh phúc “Tôi lặng lẽ nhìn chồng tôi với đôi mắt của người chết đuối. Cơn đau hành hạ tôi. Tôi âm thầm chịu, không rên rỉ. Đêm ấy tôi nằm mơ thấy một con nai trúng tên, nằm khắc khoải chờ chết trong một xó rừng” Trần Thùy Mai, 2004, Và đôi lúc còn là “sự quẫy đạp”, xác lập sự công bằng về giới “Tôi không quan tâm phúc phận, tôi chỉ thấy nước mắt mẹ chảy ra vì tôi. Bà là một người đàn bà bất hạnh. Nỗi bất hạnh bắt nguồn từ tình yêu bà dành cho những người xung quanh. Bà không tin vào sự công bằng, tôi lại càng không. Nhưng tôi biết trong cả hai mẹ con luôn có một ngọn lửa le lói chờ có cơ hội bùng lên. Là hy vọng, niềm tin còn lại hay sự phản kháng?” Nhiều tác giả, 2012, Nhân vật “tôi” chính là bản thể của cái “tôi” tự thuật/cái “tôi” chiêm nghiệm/cái “tôi” giãi bày. Điều đó được thể hiện qua ngôn ngữ, giọng điệu đầy thiên tính nữ trong từng tác phẩm. Thế nhưng, cái “tôi” tự thuật trong truyện ngắn hoàn toàn khác với cái “tôi” tự thuật trong tiểu thuyết. Nói như cách nói của nhà phê bình Hồ Khánh Vân 2013 thì cái “tôi” tự thuật trong truyện ngắn được xếp vào “cấp độ thấp” còn trong tiểu thuyết thì được xếp vào “cấp độ cao”. Bởi tiểu thuyết là “tấm gương phản chiếu” cuộc đời của tác giả nữ còn truyện ngắn chỉ là những “lát cắt” trong cuộc đời của chính họ. Vì vậy, truyện ngắn đúng như tên gọi của nó, có độ ngắn hơn so với tiểu thuyết, và có thể hư cấu và tưởng tượng theo ý đồ tác giả. Như vậy, lối viết mà ở đây là lối viết nữ chính là “hành ngôn văn học được biến đổi vì mục đích xã hội của mình”. Đó cũng chính là thế mạnh của các nhà văn nữ, dùng yếu tố diễn ngôn để biểu đạt các vấn đề xã hội có tính trọng tâm của xã hội, tiêu biểu là điểm nhìn về giới. Điểm nhìn bên ngoài Với điểm nhìn bên ngoài thì người kể chuyện chỉ có thể đi sâu vào hành động, lời nói bên ngoài của nhân vật chứ không đi sâu phân tích thế giới nội tâm của nhân vật. Điểm nhìn bên ngoà i tạo nên một khoảng cách vô hình giữa nhân vật và người kể chuyện nhưng vẫn biểu đạt được nội dung, tư tưởng của tác phẩm. Chính lời nói, hành động lại là “chất xúc tác” để độc giả hiểu rõ hơn về tư duy nhân vật. Vì suy cho cùng, hành động chính là cách để khẳng định cái tôi nhân vật. Có thể thấy rõ qua cách kể chuyện thông qua ngôi thứ ba số ít từ đó bộc lộ hành động nhân vật tạo nên ý nghĩa nhân văn của tác phẩm. Ví như truyện I’am đàn bà của Y Ban “Cu đừng trêu chị nhé. Cu làm chị tủi thân lắm đấy. Chị cũng là con người, cũng khao khát nhớ nhung…” Y Ban, 2006, Cách nhân vật xưng “cu – chị” vừa là chất giọng hoạt kê vừa giúp nói giảm, nói tránh bi kịch nhân vật. Hầu hết trong tác phẩm, Y Ban đã có cách gọi nhân vật rất độc đáo chỉ bằng một từ “thị”. Chính cách gọi tên rất mộc mạc này đã lý giải được hành động và suy nghĩ chân chất, thánh thiện của thị khi quyết định vào phòng ông chủ bởi hành động của thị suy cho cùng “Cái chính là thị thương ông chủ” Y Ban, 2006, Truyện Trăng nơi đáy giếng của Trần Thùy Mai viết về một người phụ nữ Huế công dung ngôn hạnh, một lòng một dạ vì chồng nhưng sự hy sinh đó lại dành cho kẻ không xứng đáng. Tác giả gọi nhân vật là “cô Hạnh”, đó là cách gọi khuôn phép theo lễ nghi phong kiến của người Huế xưa và nó cũng nói lên sự chịu đựng, cam chịu của người phụ nữ Huế. Hy sinh vì chồng nhưng lại nhận được thái độ dửng dưng của người chồng dẫn đến hành động “đạp đổ” tất cả, kể cả người chồng mà cô đã từng coi như “thánh sống” “Cô Hạnh đứng bật dậy, run bần bật như bị xúc phạm nặng nề. Hai hàm răng cô đánh cầm cập vào nhau, rồi bỗng cô thình lình vớ lấy cả cái khay ấm chén trước mặt, ném vào người chồng cũ” Trần Thùy Mai, 2004, Có lẽ sau tất cả mọi biến cố, sự tự do tự tại chính là niềm hạnh phúc vô biên của người đàn bà chân chính, chịu nhiều đau khổ như cô Hạnh. Điểm nhìn bên ngoài là sự đánh giá khách quan về cuộc đời và số phận của các nhân vật nữ, bằng những danh xưng/ cách gọi tên khác nhau như “ta”, “nàng”, “cô”, “chị”, “em”… Điểm đặc biệt là hình tượng người phụ nữ đã được khắc họa thật rõ nét, là hình tượng trung tâm của tác phẩm qua nhận xét khách quan của chính các nhân vật trong tác phẩm. Những cảm xúc tận cùng của nỗi đau hay sự thăng hoa của tình yêu, hạnh phúc đều được miêu tả một cách chân thực, trọn vẹn thông qua những danh xưng thật bình dị, gần gũi. Các tác giả nữ đã “đóng vai” và “nhập vai” thông qua một tuyến nhân vật khác, để kể về thân phận giới nữ sao mà tự nhiên và thân thương, giàu chất nhân văn đến như vậy! Đó là một cô gái trẻ hồn nhiên với một tình yêu cao cả với một người đàn ông lớn tuổi bán thân bất toại, bất chấp sự phản đối của gia đình. Có thể nói, sự hy sinh thầm lặng để yêu và được yêu, bất chấp rào cản tuổi tác, địa vị là điều đáng quý và đáng trân trọng “Cô ao ước một ngày kia có đủ can đảm ngả vào ngực ông, thổn thức thổ lộ rằng cô xin dâng cuộc đời nguyên vẹn của cô, tuổi xuân của cô cho ông nếu ông không chê cô xấu xí. Rồi dù ông chấp nhận hay không, cô sẽ cứ lặng lẽ sống bên ông cho tới khi ông ra đi, chỉ cần được nghe giọng ông thủ thỉ bên cạnh, được khám phá tâm hồn ông qua từng trang viết” Đoàn Lê, 2010, Và đôi khi, là sự “hóa thân” để nói về những ẩn ức tính dục, bản năng tính dục đầy bản ngã, tự nhiên của người phụ nữ “Anh quàng tay ôm chị bế bổng lên và chạy gằn ra hầm. Hình như Ngần nói đúng _ chị cảm nhận trọn vẹn cơ thể và hơi hướng của đàn ông tỏa ra từ anh. Và chị xôn xao khao khát, về một điều gì đó chẳng rõ ràng, bất chấp cơn sốt vẫn hành hạ, bấy chấp bom đạn sắp rơi trên đầu” Nhiều tác giả, 2009, Hay đơn giản chỉ với cách gọi nhân vật – “người đàn bà” 40 tuổi, sành điệu, giàu có, luôn khao khát tình yêu nhưng cuối cũng vẫn cô đơn “Người đàn bà không thể tìm được câu trả lời nhưng hơn ai hết người đàn bà biết rất rõ về sự đau đớn và nỗi cô đơn đang ngày càng thít chặt” Y Ban, 2005, Có những lúc, tác giả nữ gọi tên nhân vật đầy yêu thương, trìu mến, với những vẻ đẹp bình dị, thân thuộc của người phụ nữ “Liên có nụ cười tươi, đôi môi đỏ tự nhiên, miệng cười, mắt cười, hàm răng như những hạt bắp non còn thơm mùi nắng và gió, mùi đất đai, thảo mộc, mùi tươi nguyên của thiên nhiên mới mẻ và bền vững”… Nhiều tác giả, 2009, Suy cho cùng, nhân vật chính trong các truyện ngắn là người phụ nữ, nhưng dù có gọi bằng danh xưng gì, với những điểm nhìn khác nhau thì người phụ nữ vẫn giống nhau ở chỗ họ cùng trải qua những biến chuyển thăng trầm của cuộc sống. Bản lĩnh của họ được “tôi luyện” qua từng giai đoạn khó khăn của cuộc đời. Tất cả những người đàn bà trong tác phẩm “Dù cho khổ đau, mặc cho vẻ bề ngoài khô cứng, có lúc cô đơn đến tận cùng thì bên trong vẫn là một trái tim ấm nóng, muốn quan tâm người và muốn người quan tâm, khát khao được sống, được yêu, được là bản thân mình” Y Ban, 2011, Từ kết quả khảo sát, chúng tôi nhận thấy rằng, tần số xuất hiện của điểm nhìn trần thuật với cách kể chuyện ngôi thứ nhất tôi có thể là điểm nhìn của tác giả/nhân vật/người kể chuyện với chiếm số lượng nhiều nhất, tiếp sau đó là các danh xưng khác. Bảng 1. Bảng tổng hợp lượt đánh giá về số lượng về ngôi xuất hiện trong các sáng tác của 6 tác giả cụ thể. Bảng 2. Bảng tổng hợp lượt đánh giá về số lần xuất hiện của điểm nhìn trần thuật. Có thể thấy, điểm nhìn bên trong xuất hiện với tầng suất thường xuyên khi chúng tôi khảo sát trong một số tác phẩm tiêu biểu, điều đó thể hiện diễn ngôn nghệ thuật của các nhà văn nữ luôn gắn liền với sự phát triển và tiến bộ của xu hướng bình đẳng giới. Các tác phẩm của các nhà văn nữ chính là “vũ khí” đấu tranh sắc bén cho sự tiến bộ, bình đẳng, tự do, hạnh phúc, là đại diện cho tiếng nói của giới nữ trong xã hội hiện đại. 5. Thảo luận và đề xuất Như vậy, có thể thấy được rằng điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài không chỉ được thể hiện qua ngôn ngữ câu chữ mà nó còn thể hiện được thế giới nội tâm phong phú của nhân vật cũng chính là sự tinh tế, tài hoa, đầy xúc cảm của “lối viết nữ”. Đó là một tâm hồn dào dạt tình yêu thương giữa con người với con người và cho chính thân phận đầy trắc trở, dư ba của giới nữ. Chúng tôi nhận thấy rằng, có sự tương đồng trong “lối viết nữ” bởi các tác giả nữ đã khéo léo “mượn” trục dẫn là ngôn ngữ điểm nhìn bên trong / bên ngoài để khai phá nguồn mạch cảm xúc, thế giới tâm hồn phong phú và đầy cá tính, mạnh mẽ, độc lập bên trong mỗi người phụ nữ hiện đại. Dù là phương Tây, phương Đông, châu Á hay châu Âu, khác nhau về lối sống, văn hóa nhưng tâm hồn của người phụ nữ như những “dòng suối nguồn yêu thương”, họ luôn sống và yêu thương, cống hiến hết mình cho gia đình và xã hội. Những trải nghiệm mang thai, sinh con, hành kinh, đau khổ, mất mát… chính là những điểm nhìn mà các nhà văn nam giới không thể diễn tả chân thật bằng “lối viết nữ”. Điều đó cho thấy, diễn ngôn về giới / lối viết nữ luôn có sức thu hút khó cưỡng với cách kể chuyện dung dị, đầy yêu thương, mang đậm “hơi thở thời đại”. Từ những phân tích trên, chúng ta có thể thấy rằng đặc trưng nghệ thuật trong điểm nhìn trần thuật trong sáng tác của các nhà văn nữ đương đại như một sự dịch chuyển, đồng hành đậm cá tính sáng tạo- một lối tư duy “khác”, “riêng biệt” trong kỹ thuật tạo dựng thế giới sống trong tác phẩm. Đó chính là các mạch nguồn sáng tác đầy mới lạ, gần gũi, quen thuộc về chính phụ nữ và “diễn ngôn về thân thể” của người phụ nữ đã hình thành nên phong cách của tác phẩm/ tác giả, định hình cho sự phát triển vững mạnh của “lối viết nữ” sau này. Làm được điều này, giới nữ phải “tự mình” phá vỡ đi những quy chuẩn, biểu tượng mà nam giới và xã hội đã xác lập trước đó bằng lối viết tự thuật ngẫu nhiên. Nói như Hélène Cixous 2007 thì “Cá nhân người nữ phải viết chính mình, phải khám phá cho riêng mình cơ thể mình cảm thấy như thế nào, và làm sao để viết về thân thể ấy trong ngôn ngữ. Rõ ràng hơn, phụ nữ phải tìm ra dục tính của mình, dục tính chỉ bắt nguồn từ thân thể của họ, và tìm cách viết về khoái cảm ấy” Phê bình văn học nữ quyền hiện đại là một lĩnh vực thú vị và mới mẻ, đối với sinh viên khi tìm hiểu về tác phẩm/ tác giả có liên quan về giới, thiên tính nữ cần làm rõ được các khái niệm về tự sự, thi pháp học và tránh nhầm lẫn giữa điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài để có được kết quả nghiên cứu/ học tập tốt nhất. 6. Kết luận Nói tóm lại, diễn ngôn về giới thông qua phương thức trần thuật đã thể hiện trọn vẹn vẻ đẹp và thiên tính nữ, đồng thời các tác giả nữ thông qua những tác phẩm của mình còn kêu gọi sự tranh đấu mạnh mẽ cho quyền bình đẳng giới. Đó cũng chính là cuộc tranh đấu không ngừng của người phụ nữ cho quyền sống và quyền tự do để đáp ứng những khao khát hạnh phúc đời thường của người phụ nữ. Tiếng lòng của các nhân vật nữ cũng chính là tâm hồn đầy trắc ẩn của các tác giả nữ. Đúng như nhận định của nhà văn Y Ban khi bàn về vấn đề người phụ nữ viết văn“Những nhà văn nữ thực sự đang đóng góp cho sự tiến bộ của xã hội, của các tác phẩm của mình. Bắt đầu từ việc họ thay đổi chính mình, tiến bộ hơn, văn minh hơn. Tôi muốn xã hội hãy đọc tác phẩm của nhà văn nữ như một sự lắng nghe, một sự thấu hiểu. Vì đó chính là tiếng lòng của họ, là những khát khao tự giải phóng bản thân mình” Y Ban, 2011, tr. 2. TÀI LIỆU THAM KHẢO Đoàn Lê 2010. Đoàn Lê và sex. Hà Nội Nxb Thanh niên. Cixous, H. 2007. Tiếng cười nàng Medusa. Tạp chí Da màu, 22, 311-312. Hồ Khánh Vân 2013. Một vài lý giải về hiện tượng tự thuật trong sáng tác văn xuôi của các tác giả nữ Việt Nam từ 1990 đến nay. Trích xuất từ Hồ Khánh Vân 2017. Vài nét phác họa về tư tưởng của bốn nhà nữ quyền tiên phong. Trích xuất từ Lê Thị Hoài Nam 2011. Người ơi. Huế Nxb Thuận Hóa. Mai Thy 2015. Đầy tớ Mẹ xin nghỉ phép. TP. Hồ Chí Minh Nxb Văn hóa -Văn nghệ. Nhiều tác giả 2009. 55 truyện ngắn chọn lọc về tình yêu. Hà Nội Nxb Thanh niên. Nhiều tác giả 2012. Điểm nhìn nghệ thuật trong văn học. Trích xuất từ Nguyễn Ngọc Tư 2010. Khói trời lộng lẫy. Hà Nội Nxb Thời đại. Phạm Ngọc Hiển 2018. Thi pháp học. TP. Hồ Chí Minh Nxb Tổng hợp. Thái Phan Vàng Anh 2010. Trần thuật từ điểm nhìn bên trong ở tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Trích xuất từ Thái Phan Vàng Anh 2016. Văn xuôi các nhà văn nữ thế hệ sau 1975 nhìn từ diễn ngôn giới. Hội thảo Khoa học quốc gia “Thế hệ nhà văn sau 1975”. Đại học Văn hóa Hà Nội. Thái Phan Vàng Anh 2017. Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI. Lạ hóa một cuộc chơi. Huế Nxb Đại học Huế. Trần Thùy Mai 2004. Đêm tái sinh. Huế Nxb Thuận Hoá. Trần Đình Sử 2007. Giáo trình dẫn luận thi pháp học. Huế Trung tâm đào tạo từ xa, Đại học Huế. Y Ban 2005. Cưới chợ. Hà Nội Nxb Văn học. Y Ban 2006. I’am đàn bà. Hà Nội Nxb Công an nhân dân. Y Ban 2011. Hãy lắng nghe tác phẩm của các nhà văn nữ. Trích xuất từ Nguồn Tạp chí Khoa học Ngôn ngữ và Văn hóa, ISSN 2525-2674, Tập 4, Số 2, 2020 Thánh Địa Việt Nam Học
49truyện khá dài do sự xuất hiện của nhiều đoạn miêu tả cảnh vật, diễn biến tâm trạng,khắc họa cụ thể về chân dung, nhắc lại những hồi ức xen lẫn vào khi trần tái hiện câu chuyện, Mạc Can đã thể hiện một lối kể chuyện khá độc đáokhông như lối kể truyền thống. Cốt truyện không theo trật tự biên niên mà phá vỡtính tuyến tính và tính thống nhất về thời gian của cốt truyện truyền thống. Cốttruyện của tiểu thuyết xoay quanh hai tuyến sự kiện và dòng hồi ức. Tuyến sự kiệnmở ra một câu chuyện thế sự về cuộc đời của những con người trôi dạt phiêu linh vềcơm áo ở Nam Bộ một thời. Chen vào đó là mảng hồi ức tâm tình đầy xúc cảm bấtchợt từ phía người kể, một kẻ sớm già trước tuổi khi chứng kiến quá nhiều nỗi đauthương của gia đình, của người thân trên con đường mưu sinh. Hai tuyến cốt truyệnnày hòa quyện, đan xen hầu như không theo một trật tự nào. Sự kiện, biến cố đãkhơi gợi những hồi ức suy tư miên man không dứt và trong dòng hồi ức suy tư ấy,sự kiện lại hiện về chắp nối quá khứ với hiện tại và góp phần dẫn dắt câu chuyện cứ thế dần được mở ra. Thủ pháp đồng hiện do đó đã được tác giả sửdụng có hiệu quả. Giữa những sự kiện được kể, hồi ức về quá khứ cứ ùa về chenngang dòng tự sự. Vì thế giữa các đoạn không có tính liên tục, liền kề, kết dính vềmặt trình tự theo tính nhân quả. Tác giả dường như không hề dụng công để sắp xếpcâu chuyện theo trình tự trước sau. Câu chuyện cứ tự nhiên chảy trôi theo dòng hồiức của nhân vật. Toàn bộ sự kiện đã được khúc xạ qua cái nhìn, cách cảm nhận chủquan và đã được chắt lọc qua tâm hồn đa cảm, đầy suy tư của người kể. Qua mànsương tâm tình của người kể, người đọc hiểu được những cảm xúc, suy tư và nhữngtrăn trở của nhân vật về kiếp người. Có lúc dòng chảy nội tâm đã trở thành đốitượng chính cho việc trần thuật và câu chuyện đã được dẫn dắt theo mạch độc thoạinội tâm trữ tình, lắng đọng chất suy tư, các ự kiện cũng được kể lại từ đó. Các sựkiện đã gắn kết với nhau từ những mảnh ghép rải rác suốt câu chuyện, trong đó cósự kiện được nói tới trong những cuộc đối thoại về sau của hai anh em, trong hồitưởng của anh Ba và cả những mảnh hồi ức vụn vặt khi nhớ khi quên của cô đàophóng dao khi về già phải sống như “một đứa trẻ già cỗi suy dinh dưỡng héo hắt,gầy nhom”. Ví như ở đoạn kể về cái đêm biểu diễn cuối cùng trước khi cô em bịnạn do anh mình phân tâm trong khi phóng dao, tác giả hoàn toàn không giải thíchnguyên nhân trước đó điều gì làm cho người anh phân tâm. Điều này chỉ được nói 50đến trong cuộc trò chuyện của hai anh em khi đã về già. Người đọc chỉ hiểu đượcnguyên nhân khi đọc đoạn đối thoại của Bà Tư nói với anh Ba của mình “Anh đâucó biết, tối hôm đó trước khi mở màn, chị Phương cho anh Hai biết tin chị có thai,cha chị nói chị phải về nhà ngay lập tức. Ông muốn gả chị cho người khác một cáchgấp rút, anh Hai mình phân tâm là đúng, nhưng tức cười… sự phân tâm này lại ảnhhưởng nặng nề tới nhiều người khác”[5, Và trong mảng hồi ức của cô đàophóng dao, người đọc mới hiểu được sự việc xảy ra trong đêm diễn kinh hoàng vànỗi đau của người phải dùng tính mạng của mình đánh đổi cho cuộc mưu sinh nhọcnhằn “Em cúi mặt xuống nhìn mảnh ván dưới sân khấu, biết bao lần em vẫn nhìnxuống chân mình để khỏi thấy những lưỡi dao. Lần này em nhìn máu của em nhỏxuống đó, một lưỡi dao chém vào bả vai, ban đầu em không thấy đau… mà ngạcnhiên, bởi vì em đâu có ngờ như vậy. Sau đó trộn lẫn với cái đau và những giọt máumới cảm thấy mình buồn rầu làm sao. Trên thế gian này chắc chỉ có mình em là cóđược nỗi buồn đó anh ơi”[5, phóng dao trong thực tế có lẽ chỉ diễn ra trong vài phút nhưng lại đượctác giả kể lại đến khoảng 15 trang. Nhịp điệu trần thuật như được kéo giãn ra chậmchạp chứ không đi nhanh đến kết thúc do nhiều lần sự việc bị cắt ngang bởi dòngsuy tư miên man không dứt của nhân vật. Và phần kết thúc đoạn truyện đầy kịchtính này không phải kể về màn phóng dao của người anh thành công hay không màlà suy tư của nhân vật “tôi” với câu hỏi muôn thuở “tại sao” đầy trăn trở, day dứt“tại sao tôi không được sống bình thường như những người khác chung quanh tôi,tại sao tôi dốt nát mê muội, tôi có quyền được sống làm người, được học hành, yêuthương và có hạnh phúc chứ”[5, sát Tấm ván phóng dao chúng tôi nhận thấy trong tác phẩm có đếnhơn 160 tác giả sử dụng dấu ba chấm lưng chừng trong câu. Đây là một dụng ýnghệ thuật, Mạc Can tạo ra khi đọc có cảm giác như chùn lại, có những khoảnglặng, khoảng trống mà người đọc cần suy nghĩ và điền vào điều mà tác giả chưa nóihết. Trong những giấc mơ của Anh Ba cũng thế, đang mơ màng, trôi cảm xúc theonhững ước vọng xa xôi, bỗng dưng lại giật mình tỉnh giấc. Anh Ba bàng hoàng, lânglâng không biết khi nào là thật, khi nào là mơ, anh lại đặt ra những câu hỏi “tại sao”,và khi đặt ra không bao giờ anh trả lời được. Phải chăng chính những chiêm 51nghiệm, suy tư của người đọc sẽ thay anh trả lời những câu hỏi trên một cách trọnvẹn hơn. Hay lúc Mẹ anh thường ngồi xem bói với những con bài đen đỏ. Dẫu bàbiết cuộc đời mình chẳng thể nào thay đổi được, nhưng bà vẫn hy vọng, niềm hyvọng mong manh còn sót lại như yếu tố tâm linh nào đó cầu mong cuộc đời bà, giađình có cuộc sống khá hơn. Đọc đến đây, nhịp điệu câu chuyện chậm rãi, dư âm củacảm xúc đọng lại, độc giả lắng lòng lại trước sự nhỏ bé của thân phận người, vậy, thông qua nhịp điệu trần thuật chậm rãi, khoan thai Mạc Can đãtìm được nhịp điệu trần thuật phù hợp để tái hiện sinh động thế giới tâm hồn sâu sắccủa con người. Tiểu thuyết gợi cảm giác dàn trải, kết cấu không theo tuyến tính thờigian, có sự kết hợp linh hoạt giữa kể, miêu tả nội tâm, độc thoại và hồi tưởng. Đằngsau tác phẩm như ẩn vào đấy con người của chính nhà văn, đồng thời gửi gắm baonhiêu tâm tư, cách nhìn nhận, khám phá về cuộc sống của những người nghệ sĩ phảilà kiếp tằm nhả tơ trả nợ cho đời. Chính nhịp điệu này đã góp phần hình thành nênnét trần thuật đặc sắc, ấn tượng trong tiểu thuyết của Nhịp điệu trần thuật nhanh, gấp gápBiến cố và thời gian vận động sẽ ảnh hưởng, chi phối tốc độ, nhịp điệu trầnthuật trong tác phẩm. Với một biến cố lớn xảy ra trong một khoảng thời gian ngắnthì sẽ gây ấn tượng về sự trôi chảy nhanh chóng của thời gian. Ngược lại, biến cố ítsẽ gây ấn tượng về sự chậm chạp. Yếu tố tạo nên nhịp điệu trần thuật là những hiệntượng, sự kiện, tình tiết được đan cài, xen kẽ bởi các thủ pháp của nhà văn. Ngoàira, theo quan niệm của Genette thì muốn khám phá nhịp điệu trần thuật trong tổngthể chung của tác phẩm tự sự, đầu tiên phải xem xét về các vận động từ trong vănbản. Genette khẳng định rằng “nếu đem số trang dành cho một một vài sự kiệnhoặc một một vài phần của văn bản truyện để chỉ khoảng thời gian thực tế năm,tháng, ngày… tương ứng của câu chuyện được kể thì sẽ thấy được sự biến đổi củanhịp điệu kể chuyện” dẫn lại theo Nguyễn Mạnh Quỳnh.Trong tiểu thuyết Tấm ván phóng dao của Mạc Can, chúng tôi nhận thấy tácgiả kể với nhịp điệu nhanh, nhiều đoạn diễn biến mạch truyện gấp gáp. Mặc dù,trong tác phẩm này, cốt truyện không nhiều sự kiện, song do áp lực của thời gian vàthủ pháp kể của tác giả nên diễn biến tâm lý của nhân vật, của các sự kiện, biến cố 52vận động liên tục đã tạo ra nhịp kể nhanh, gấp gáp. Phải chăng đây là cách nhà vănmuốn hướng câu chuyện hiện thực khách quan đoạn diễn ra màn phóng dao, những sự kiện, chi tiết không được sắpxếp theo trình tự tự nhiên mà xáo trộn, đảo lộn thời gian đan xen giữa quá khứ vàhiện tại. Người đọc phải kết nối các sự kiện trong dòng hồi ức của nhân vật thì mớibiết được sự việc đã xảy ra. Nghệ thuật kể chuyện đã tạo cho người đọc cảm giáccăng thẳng hồi hộp như đang xem một bộ phim có nhiều kịch tính. Những âm thanhsống động, tạp nham của rạp hát làm cho mọi thứ như khẩn trương hơn “Vẳng lại từtrước tấm màn nhung dầy mo, là một cõi nào khác, luôn luôn là tiếng náo động nhưđịa ngục, tiếng nói chuyện ồn ào, tiếng cãi nhau, kích động, chửi thề, tiếng con nítkhóc, tranh giành chen lấn chỗ ngồi. Tiếng rao bán quạt giấy, mía ghim, cốc ổi, lẫntrong không khí nóng nực, nồng nặc mùi hôi, mùi thuốc lá nặng, mùi nước giải vàphân dơi”[5, Khi ấy người anh đã phân tâm lúc đang điều khiển mười hailưỡi dao phóng về phía tấm ván mà ở đó có cô em gái tội nghiệp đang đứng. Mànphóng dao được miêu tả đầy căng thẳng từng bước một, từ lúc anh Ba làm cái việcthường ngày là tưới cho mềm tấm ván rồi vác nó lên sân khấu đến từng hành động,cử chỉ của diễn viên biểu diễn khi lần lượt xuất hiện để bắt đầu cho màn diễn. Vàtrước mỗi lần phóng dao, “người cõi trên” đứng sau tấm ván luôn mang trong ngườitâm trạng bàng hoàng, lo lắng cho đứa em gái “trái tim tôi cứ đau nhói trước giờbiểu diễn, trong bối cảnh mọi người đều hân hoan, hàng ngàn lần không lần nàokhác, đêm nay anh tôi khác thường hơn mọi đêm, tim tôi càng đập mạnh hơn”[5, Khi người đọc căng thẳng chờ đợi sự việc xảy ra thì tác giả lại hướng sựchú ý của người đọc đến những yếu tố bên ngoài Điệp bị đám du côn vây đánh, hìnhảnh Phương ngồi ở hàng ghế khán giả đàng sau là người đàn ông lạ. “Chếch về phíatrái sân khấu có một người làm tôi khó rời mắt, người đàn ông nầy cao tới nỗi bấtbình thường, ông ta nổi bật trong đám đông, trên ngực mang chiếc máy ảnh lớn, cũkỹ, đôi mắt như cá chết đục ngầu, u ám lạ kỳ, ông ta chính là, con cá ngồi sau lưngchị Phương, con cá nầy bơi tới gần sân khấu từ lúc nào tôi không biết. Tôi chưa biếtmặt quỷ sứ, như mẹ tôi thường kể chuyện con người lúc chết, lũ quỷ kéo tới mà kẻnầy là hiện thân. Chung quanh ông ta là một cái gì lạnh tanh mờ tối, hầu như khôngcó ai trông thấy ông ta ngoài tôi, ông ta nháy mắt với tôi, rồi dùng một ngón tay chỉ 53lên môi, bỗng nhiên tôi run lên khi nhìn cặp môi ông ta động đậy tôi nghe vẳng lạitiếng thì thầm khàn đục Con dao, con dao?”[5, Những chi tiết này có thểlàm cho người đọc phân tán sự chú ý theo dõi nhưng lại có tác dụng gia tăng sự hồihộp chờ đợi kết cục câu chuyện khi sự việc đang ở cao trào “Chú Thành lia haichiếc đùi trống, lần nầy ở rìa mảnh da dê, trên mảnh da con vật chết khô tan xác tộinghiệp, căng cực thẳng ba sợi lò xo, động, nhẹ tới nó lập tức nó kêu lên, một giọngthan rè rè. Đây là thế phóng dao nghiêng người, người phóng dao xoay tròn theo vàinhịp nhạc, người đứng trước tấm ván phải khom lưng, cúi đầu cho những lưỡi daocắm chung quanh cằm và gáy. Tai tôi đã quá quen với tiếng trống của chú Thành,cứ mỗi lần lưỡi dao của trò- phóng- chung- quanh- đầu nầy phô diễn, dao cắm vàomảnh ván, chú lại đập dùi lên cái dĩa đồng”[5, Chen vào đó là dòng tâm lýcũng đang diễn ra căng thẳng của chính người kể, người anh Ba đứng sau tấm vánđang hồi hộp lo âu cho số phận của em gái và dự đoán có điều bất thường sắp xảyra. Người đọc như nghẹt thở, thấp thỏm chờ đợi sự việc tiếp theo là như thế nào khi“Tôi- nín- thở- đếm- theo- từng- tiếng- đĩa- đồng- vang một... hai... ba... bốn...năm... sáu... bảy... tám... chín. Trong không khí nóng như lửa địa ngục, tôi nhìn thấycả những người cởi trần, đang hết sức khích động, có người nhảy chồm lên lưng ghếnồng nhiệt vỗ tay, nhiều tiếng chắc lưỡi ghê rợn, đám con nít vẫn cứ chen lấn trênthềm sân khấu cạnh ban nhạc đệm”[5, Đó không phải là những biểu hiệntâm lý đơn giản mà là một phức hợp những sắc thái cảm xúc đan xen hồi hộp, lolắng, đau đớn, phẫn uất như điên cuồng muốn đập phá một cái gì đó để giải tỏa,thậm chí anh đã nắm lấy cán con dao làm cá của người mẹ mà anh luôn giắt sau tấmván. Mọi phẫn uất, tức tưởi, xót xa bấy lâu nay bị dồn nén quá mức, chỉ cần một lựcnhỏ tác động thì mọi kiềm nén bấy lâu đã bật tung. Đến đây tác phẩm như có độcăng hết mức, sức dồn nén đến mức tối đa, không được một trang giấy nhưng lại tạothành chấn động, những mảnh chắp vá của cuộc đời ám ảnh theo suốt cuộc đời củaÔng Ba và Bà chung, ở tác phẩm, nhà văn chú ý xây dựng tình huống giàu kịch tính,sử dụng nhiều đối thoại ngắn để tạo độ căng cho mạch truyện. Với sự lựa chọn này,nhà văn đẩy nhân vật vào những hành động mang tính bước ngoặt nên nhịp điệu 54trần thuật chủ yếu nhanh, gấp gáp, tuy nhiên nhịp điệu này không có nhiều trongtiểu ván phóng dao là lát cắt từ những mảnh ghép vụn vặt cuộc đời gia đìnhgánh xiếc Nghệ Tinh. Chỉ vỏn vẹn không đầy 200 trang, nhưng nó là bản hòa tấuâm hưởng giàu cung bậc. Từ nhẹ nhàng, sâu lắng bởi những khúc ca du dương, âmthanh ngọt ngào dịu êm của khung cảnh xóm nghèo nơi miền quê Lục tỉnh. Đếnnhững âm thanh bổng trầm đôi khi lạc điệu bởi những giấc mơ của Anh Ba, bị đứtchừng khi choàng tỉnh giấc. Tất cả như điệu slow chậm rãi, khoan thai, để lại dư batrong lòng độc giả. Có lúc lại ngân vang, réo rắt thôi thúc chờ đợi sự việc tiếp theo,căng thẳng đến nghẹt thở. Bản giao hưởng ấy phải chăng là “cung đàn lỗi nhịp” màcuộc đời người nghệ sĩ hát rong nếm trải. Để rồi sau bản hòa tấu đầy cung bậc ấy,hòa quyện lại là nỗi niềm, suy tư, trắc ẩn về những mảnh đời, độc giả cảm thônghơn, yêu thương hơn nhân vật và yêu luôn cả cuộc đời nghệ sĩ Mạc Giọng điệuĐọc truyện của Mạc Can ta thấy giọng văn chân thật, giản dị và bản không học nhiều nhưng với sự khao khát với con chữ, khao khát được viếtđược giãi bày, vì vậy văn ông giản dị đến không ta khen văn Mạc Can đơn giản, dễ hiểu, dễ gần, không có những từđánh đố người đọc, không có sự trau chuốt rắc rối như lối hành văn của những vănsỹ trẻ. Đó là thứ văn chương bình dân, thứ văn chương dành cho số đông. Nó đứngsang một bên, không chung hàng, chung lối với những thứ văn chương chỉ được chichút về giọng điệu, về hình thức… Nó thể hiện sự tôn trọng của người viết vớingười đọc. Nó là cuộc trò chuyện với độc giả, thông qua một trung gian, ấy là Giọng điệu dân dã mộc mạcỞ Tấm ván phóng dao, ấn tượng đầu tiên mà độc giả bắt gặp ở văn phongMạc Can là giọng điệu dân dã, mộc mạc trong những trang văn tả cảnh thiên nhiên,trời mây sóng nước, cảnh sinh hoạt của những con người phiêu linh, trôi nổi trênchiếc ghe đoàn xiếc. Đó là những trang viết về những “cơn mưa lúc nửa đêm” vớinhững tiếng “mưa rơi lộp độp trên mái nhà lồng chợ vắng tanh, sân khấu không ánh 55đèn, không khán giả, buồn ai oán, chung quanh mờ mại gió nước, tiếng ếch nhái ồmộp, một lúc vang vang, một lúc lặng thinh. Tiếng mưa rơi hoài, não nuột suốt canhthâu… trong mưa, từ cõi nào vẳng lại tiếng cầu kinh hoang mang, dàn đồng ca củakiếp côn trùng nơi bùn lầy nước đọng, không khác gì cuộc đời những người hátrong!”[5, Câu văn êm ả như ru, những cơn mưa làm xót xa nỗi lòng củacon người “có trái tim quá lớn” như nhân vật tôi. Những đêm mưa làm cõi lòngthêm thấm lạnh, nhân vật càng thấm thía cái niềm đau và nỗi buồn về kiếp hát rongtrôi nổi. Giọng văn dân dã, mộc mạc, đượm buồn, câu văn có chất thơ, để khi đọcđến đâu, chúng ta như lắng lòng lại, cảm thông sâu sắc cho số phận, kiếp người lênhđênh trên sóng điệu dân dã, mộc mạc này giúp Mạc Can trần thuật một cách dễ dàngvới lời văn gần với văn nói, ở đó có sự mộc mạc, dung dị khi nói về cuộc sống vấtvả mưu sinh. Sự thiếu thốn về vật chất, sự khắc nghiệt của lòng người, của thiênnhiên được trải điệu dân dã, mộc mạc xuất phát từ chính con người nhà văn, cũng nhưcảm quan của chính tác giả về nhân vật của mình. Giọng điệu ấy được thể hiện bằngngôn ngữ nhân vật luôn mang đậm chất Nam Bộ, giàu tính khẩu ngữ “Lẹ tay thìcòn, chậm tay… cũng còn”; “Trời ơi ai mà ác nhơn sát đức vậy không biết”; “Chamẹ sanh con, trời đất sanh tánh”, hay “Tụi nó móc túi người ta chớ nó móc túi ôngđâu mà ông lo chuyện ba láp, nó thù vặt chém lén là mệt nha, nó tiểu nhơn đánh lénsau lưng mình phải sợ chớ”, “ổng đen thui nên đặt ổng tên là ông lô xí sộ”, “Dạ tuité xuống giếng, may mà má tui hay kịp vớt lên, không thì tui chết rồi, rối cái tuibịnh ban cua tóc rụng hết ráo, còn nữa, hồi hai tuổi tui nghe má tui nói lại, tui téxuống sông, chìm lỉm, vớt lên chết luôn mấy ngày… tự nhiên bây giờ tánh tui hơitưng tưng”.Bên cạnh đó nhà văn thể hiện ngôn ngữ đối thoại qua từ ngữ chân chất, mộcmạc gần gũi với ngôn ngữ đời thường “bà Trần lấy làm lạ hỏi chú Bê, bởi chú haynói chuyện với con bà- Chú Bê thằng Ba bị cái gì vậy?Chú Bê cười ruồi 56- Nó bị người khuất mày khuất mặt bắt, tại đêm nào nó cũng đứng sau gòmả!Bà Trần lại hỏi- Trời… trời, nó đứng ở ngoải làm cái gì vậy hỡi trời?” [5, ván phóng dao là lời thủ thỉ tâm tình của tác giả về một số kiếp cơ cựcnghèo hèn. Truyện của ông không ồn ào, gay gắt những mâu thuẫn xung đột, khônglà sự phản kháng mạnh mẽ, không có những tính cách nổi bật mà hấp dẫn bởi tấmlòng yêu thương của tác giả, bởi cách viết khá riêng và độc đáo. Sinh ra và lớn lêntrong cảnh đói khổ, Mạc Can hơn ai hết thấm thía sâu sắc về cuộc sống của nhữngsố phận nghèo khổ, bất hạnh. Giờ đây, qua tác phẩm của Mạc Can chúng tôi dễnhận thấy cuộc sống của những người dân thôn quê, nổi trôi lênh đênh trên sóngnước một cuộc sống lang thang phiêu bạt. Có thể nói, giọng điệu dân dã mộc mạclàm nên chất riêng cho Mạc Can, là “đặc sản” của nhà văn Nam Giọng tâm tình, thủ thỉ, giàu chất thơMỗi tác phẩm, mỗi tác giả có một giọng điệu khác nhau, nhưng nó luônthống nhất trong một khuôn giọng điệu cơ bản và chủ đạo nào đó. Giọng thủ thỉ tâmtình với tư cách là một thủ pháp đã xuất hiện từ trước, và trong các thời kỳ văn học,giọng điệu này luôn được sử dụng và mang sắc thái riêng. Điều đó cho thấy giọngthủ thỉ tâm tình không phải là sản phẩm mới, đặc sản riêng của Mạc Can. Ở đâyMạc Can đã vận dụng những gì sẵn có để biến tấu theo những dụng ý riêng củamình. Giọng điệu thủ thỉ tâm tình hiện diện trong tác phẩm nhưng rất khó nắm thẩm thấu vào tất cả những yếu tố trong tác phẩm. Nó có thể được tạo ra từnhững khoảng trống, từ những điều không được nói tới trong tác phẩm. Vì thực chấtgiọng điệu thủ thỉ tâm tình chỉ có thể lĩnh hội, cảm nhận thông qua chính quá trìnhđọc, cảm nhận từng câu từng chữ, qua lối diễn đạt, ngôn ngữ của những hình ảnh,sự cộng hưởng giao thoa thẩm thấu, xuyên thấm vào nhau của tất cả những yếu tốtrong tác chiếu vào Tấm ván phóng dao, Mạc Can đã thể hiện loại giọng điệu đặcbiệt này. Đây là hệ quả của cách nhìn người, nhìn đời đầy tính nhân văn của Can không thích “nống lên thống thiết” Lại Nguyên Ân mà thích phô bày cái 57nôm na, thật thà đáng yêu, cái thủ thỉ, tâm tình. Chất giọng ấy phù hợp với việcmiêu tả đời sống của người dân nông thôn nghèo, những con người có cuộc sốnggiản dị. Giọng văn Mạc Can trầm, sáng, gần với giọng truyện cổ tích, nhịp vănchậm gọn, như thủ thỉ tâm tình kể cho ta nghe về câu chuyện của cuộc đời. Giọngtâm tình trong Tấm ván phóng dao đậm đặc và thể hiện trên nhiều phương diện. Cảcâu chuyện đều mang giọng điệu đó, bắt đầu bằng cách gọi tên các nhân vật cậuBa, cô Tư, Anh Hai, chú Bê, chú Tài say đầy thân mật, đến các nhân vật trong tácphẩm đều có lai lịch, có nguồn gốc xuất thân, có ngoại hình rõ ràng để từ đó ông thểhiện cái nhìn về cuộc đời số phận của họ. Đây là câu chuyện buồn của một kiếpngười, câu chuyện đã tạo được lực hấp dẫn, lôi độc giả đi theo không ngừng từ đầuđến cuối là do những tình tiết và tâm lý nhân vật đã mật thiết lồng vào nhau trongmột bố cục, một hình thức văn phong phong phú, một giọng điệu tâm tình thu khi chúng ta cứ ngỡ như đang nghe tác giả kể lại cuộc đời mình “Không có gìlàm cho tôi sợ hơn cơn mưa lúc nửa đêm, vì với riêng tôi, nhìn giọt mưa rơi longlanh, nghe tiếng mưa rì rào, tí tách, chẳng khác nào những lời thì thầm bên tai, nhắcnhở lại quá nhiều nỗi buồn, của cuộc đời đã qua”[5, Những cơn mưa như triềnmiên, không dứt vào những tháng ngày mưa bão “Mưa rơi lộp độp trên mái nhàlồng chợ vắng tanh, chợ không người, sân khấu không ánh đèn, không khán giả,buồn ai oán, chung quanh mờ mịt gió nước, tiếng ếch nhái ồm ộp, một lúc vangvang, một lúc lặng thinh”[5, đấy chính là dư vị của “dàn đồng ca của kiếp côntrùng nơi bùn lầy nước đọng”. Theo cảm nhận của riêng “tôi”, những âm thanh nãonùng, ai oán ấy “không khác gì cuộc đời những người hát rong”[5, Âmthanh, không gian của những xóm nghèo vào đêm mưa nghe sao não nùng, thê thiết,dày đặc khắp tác phẩm, tạo nên chất tháng ngày phiêu lưu trên những dòng sông, những bến sông cùngtấm ván phóng dao, có lẽ hơn ai hết nhân vật “tôi” thấm thía nỗi lòng của ngườikiếp sống lênh đênh. Anh Ba càng thấy yêu những dòng sông trôi lững lờ, nhữnggiề lục bình bấp bênh nổi trôi vô định. Dòng sông mà đoàn hát gia đình trôi nổi theonhững ngày tháng mưu sinh, phải chăng đó là dòng đời nghiệt ngã, xô đẩy nhữngcon người sống kiếp long đong, vô định. Sau những tháng ngày lang bạt, phiêubồng trên chiếc ghe, gia đình Anh Ba cập cảng cuộc đời trên mảnh đất hắt hiu nơi 58xóm nghèo, không có một mái nhà, mà phải ở tạm. Xóm nghèo ấy nằm cạnh mộtkhu đất hoang người ta quen gọi với cái tên nghĩa địa. Gia đình ly tán, Anh Ba vàCô Tư sống trong nỗi vật vờ, nửa mê nửa tỉnh của cô em gái không biết mình đangsống hay đã chết. Giọng văn chậm rãi thủ thỉ về nỗi buồn thấm thía của kiếp làmngười “Lúc nào cũng vậy, khi tôi nhắm mắt, ban đầu thường có những đốm sánglập loè, đó là ánh lửa trong chiếc đèn bão, thời thơ ấu của tôi, rồi là chữ chỉ có chữ,tôi khát chữ tới độ điên cuồng, ở kiếp nào đó, ở một thế giới nào đó… tôi là mộtnhà thông thái. Tôi biết quá nhiều điều nhưng rồi tôi đã làm sai một điều gì đó khiếncho tôi bị xoá đi, cả tôi và cả những điều tôi học, giờ đây tôi biến thành kẻ lưu đày utối, trong tiềm thức, tâm linh tôi như sương khói”[5, cách dựng truyện pha trộn giữa thực tại và hồi tưởng khéo léo cùng cáchhành văn nhiều đoạn huyền ảo với giọng điệu thủ thỉ tâm tình đã tạo cho chúng tacái ham muốn không thể nào thoát ra Giọng ngậm ngùi, cảm thươngTrong truyện của Mạc Can, như Tấm ván phóng dao, Công chúa Ôsin, tabắt gặp cái giọng điệu ngậm ngùi, cảm thương. Đó là sự cảm thương đối với cuộcsống la suy ngẫm của nhân vật, hay qua những lời nhận xét trực tiếp,góp phần làm cho nghệ thuật tự sự thêm hấp dẫn, làm cho người đọc truyện dùtrong hoàn cảnh nào cũng không thể dửng Giọng điệu chiêm nghiệm triết lýMạc Can có lối kể phần “khách quan”, “tự nhiên” tránh việc bắt nhân vậtphải gồng mình lên tự phân tích. Ở đây những tình thế đời sống được đưa ra như làđể thể hiện một sự chiêm nghiệm lẽ đời hơn là để phê phán một lối sống nào cho việc lật ra mặt trái của lối sống thông tục theo những thói quen vô thức, ởđây nhà văn càng điềm tĩnh hơn trong khi phát hiện ra những nghịch lý của cuộcđời. Tư tưởng chủ đạo trong tác phẩm của Mạc Can đó là tư tưởng nhân văn, nhânđạo, lấy tình thương, sự nhân ái để cảm hoá con người. So với các tác giả khácchúng tôi có cảm giác như Mạc Can còn vướng quá nhiều duyên nợ với đời, cho
VIỆN HÀN LÂMKHOA HỌC Xà HỘI VIỆT NAMHỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘITẠ HƯƠNG TRANGPHƯƠNG THỨC TRẦN THUẬT CỦA TRUYỆN NGẮNTHẾ SỰ - ĐỜI TƯ TRONG VĂN HỌCVIỆT NAM TỪ SAU 1986Ngành Văn học Việt NamMã số 9. 22 .01 .21LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌCNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC LÊ QUANG HƯNGHÀ NỘI – 2019LỜI CAM ĐOANTôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kếtquả nêu trong luận án là trung thực, đảm bảo tính chính xác và khoa học tài liệu tham khảo, trích dẫn đều có xuất xứ rõ ràng. Tôi xin chịu hoàntoàn trách nhiệm về công trình nghiên cứu của Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2019Tác giả luận ánTạ Hương TrangLỜI CẢM ƠNLuận án được hoàn thành, tôi muốn bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc, chânthành đến Lê Quang Hưng, người thầy hướng dẫn khoa học tận tình,luôn sẵn sàng chia sẻ quan điểm, gợi mở nhiều ý tưởng hay, mới lạ, giúp tôicó thêm nhiều tri thức lý luận và phương pháp tư duy, làm việc khoa cũng xin được gửi lời cảm ơn đến Ban giám đốc Học viện Khoahọc xã hội, phòng Quản lý Đào tạo, các thầy cô trong khoa Văn học đãthường xuyên động viên, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình nghiên cứucủa được bày tỏ lòng biết ơn tới Ban giám hiệu Trường Đại học HảiPhòng, Khoa Ngữ văn – Địa lí nơi tôi công tác đã giúp đỡ tôi rất nhiều về mặtthời gian để tôi hoàn thành chương trình học và luận ơn bố mẹ, những người thân trong gia đình, đồng nghiệp, bạnbè,... đã sẻ chia, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thànhluận Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2018Tác giả luận ánTạ Hương TrangMỤC LỤCMỞ ĐẦU..................................................................................................................... 1Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU......................................... niệm chung về phương thức trần thuật trong truyện ngắn thế sự - đời tư..... hình nghiên cứu phương thức trần thuật trong văn xuôi Việt Nam từ sau1986........................................................................................................................... hình nghiên cứu phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư từsau 1986..................................................................................................................... 26Chương 2 TRUYỆN NGẮN THẾ SỰ - ĐỜI TƯ TRONG SỰ VẬN ĐỘNG,PHÁT TRIỂN CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ SAU 1986................................ tiền đề cho sự phát triển của truyện ngắn thế sự - đời tư trong văn họcViệt Nam từ sau 1986................................................................................................ quát truyện ngắn thế sự - đời tư trong nền văn xuôi Việt Nam từ sau 198656Chương 3 ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT, TỔ CHỨC TÌNH HUỐNG VÀ KẾTCẤU TRONG TRUYỆN NGẮN THẾ SỰ - ĐỜI TƯ TỪ SAU 1986................... kể và điểm nhìn trần thuật.......................................................................... chức tình huống.............................................................................................. thuật tổ chức kết cấu................................................................................ 101Chương 4 NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT CỦA TRUYỆNNGẮN THẾ SỰ - ĐỜI TƯ TỪ SAU 1986............................................................ ngữ trần thuật........................................................................................... điệu trần thuật......................................................................................... 132KẾT LUẬN............................................................................................................ 148DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC Đà CÔNG BỐ CÓ LIÊNQUAN ĐẾN LUẬN ÁN......................................................................................... 151DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................. 152MỞ ĐẦU1. Tính cấp thiết của đề Trong quan niệm của lí thuyết tự sự học hiện đại thì tiểu thuyết làthể loại tự sự cỡ lớn, có khả năng miêu tả bức tranh hiện thực rộng lớn và sốphận của một hay nhiều người. Trong khi đó, điều làm nên nét khác biệt giữatruyện ngắn với tiểu thuyết hay những thể loại tự sự khác chính là ở chỗ dunglượng ngắn, tập trung miêu tả một sự kiện, một tình huống hoặc một khoảnhkhắc nào đó xảy ra trong cuộc đời của nhân vật. Trong loại hình văn xuôi tựsự, truyện ngắn được đánh giá là một thể loại có tính thích ứng cao với thờiđại nó tồn tại và phát triển. Trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường nhưngày nay, truyện ngắn phù hợp với thị hiếu của độc giả bận rộn khi họ khôngcó nhiều thời gian dành cho việc nhâm nhi chiêm nghiệm một tác ưu điểm kể trên khiến cho truyện ngắn là một trong những thể loại cóthể đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thời đại đổi mới, của độc giả sau chọn mốc 1986 chúng tôi không chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu tácphẩm mà hơn hết đó là mốc thời gian quan trọng diễn ra Đại hội VI của đầu từ đây văn nghệ thực sự được giải phóng kéo theo sự khai phóng cácthể loại khác về cả nội dung và hình thức biểu hiện. Mặt khác, đây cũng làmốc thời gian ghi nhận những cách tân đáng chú ý của các thể loại văn học,những tác phẩm truyện ngắn thực sự có giá trị cũng bắt đầu ra đời từ xuôi nói chung, truyện ngắn giai đoạn sau năm 1986 nói riêng thựcsự đã tìm được cho mình một hướng đi mới dù đầy chông gai song lại đạtđược những thành tựu đáng ghi nhận. Về nội dung, nó bắt đầu đi sâu vào thếgiới nội tâm của con người để tìm hiểu và khái quát thành tâm lí điển hình củathời đại. Những mảng như chiều sâu tâm linh, cõi vô thức hay sự cô đơn bảnthể, cô đơn nghệ sĩ... đều được nó nghiêm túc khám phá và sáng tạo. Về hìnhthức, khác với quan niệm truyền thống, truyện ngắn sau 1986 không ngừng nỗlực kiếm tìm những phương thức biểu hiện phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của1văn học. Bên cạnh những cây bút vẫn kiên trì cách viết truyện truyền thốngthì một loạt các cây bút với ý thức tự làm mới mãnh liệt đã ra đời nhưNguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương... Ở một phương diện khác, khi lựa chọn đề tài này, chúng tôi căn cứvào chủ đề và cảm hứng của văn xuôi sau 1986 nổi bật lên ba khuynh hướngchính, đó là khuynh hướng sử thi, khuynh hướng thế sự - đời tư và khuynhhướng triết luận. Trong ba khuynh hướng ấy thì khuynh hướng thế sự - đời tưđược đánh giá là khuynh hướng thu hút nhiều người tham gia viết nhất, trởthành niềm say mê hứng khởi sáng tác ở nhiều cây bút truyện ngắn xuất học trước 1975 quan tâm đến nội dung “viết cái gì” của các nhàvăn. Chính vì thế mà sự tỏa bóng của “chủ nghĩa đề tài” khá rộng lớn trongvăn xuôi. Những đề tài như ca ngợi cuộc chiến vĩ đại của dân tộc, những tấmgương người tốt, việc tốt được đề cao còn những đề tài đi sâu vào miêu tả sốphận của cá nhân hay đời sống cá thể riêng biệt thì sẽ bị cấm đoán thậm chínhiều nhà văn bị treo bút trong một thời gian dài vì những gì họ viết ra khôngđúng với tinh thần của thời đại. Song sang đến giai đoạn sau 1986, nhờ lờikêu gọi của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh mà văn học được “cởi trói”. Cảmhứng sử thi tồn tại trong suốt những năm tháng chiến tranh và một vài nămsau đổi mới đã nhường chỗ cho cảm hứng thế sự - đời tư khi con người dầntrở về với cuộc sống thường nhật. Lựa chọn cảm hứng này trong sáng tác, cácnhà văn được mặc sức khám phá thế giới muôn hình muôn vẻ với những nhândạng tồn tại trong hiện thực đó. Mặt khác, nó cũng chi phối đến các phươngdiện khác thuộc trần thuật học trong tác phẩm mà cụ thể là điểm nhìn trầnthuật, tổ chức tình huống, kết cấu, ngôn ngữ và giọng điệu... Có thể thấy đâylà một hướng đi dù không có nhiều cách tân quyết liệt về mặt hình thức nhưngđã khắc tạc trên cây cổ thụ văn chương nỗi đằm sâu của những nhà văn sốngcó trách nhiệm và nặng lòng với đời sống con Nếu như văn học giai đoạn trước năm 1975 quan tâm đến nhà văn2thể hiện nội dung gì trong sáng tác của mình, những nội dung ấy có phù hợpvới lí tưởng của thời đại hay không, có giá trị cổ vũ tinh thần và ý chí của conngười trong thời đại ấy như thế nào... thì giai đoạn từ sau 1986, cái mà vănhọc và công chúng quan tâm là nhà văn - anh đã làm mới “đứa con tinh thần”của mình như thế nào, nói một cách khác là anh đã có thêm tiếng nói, cáchnói gì. Trong xu thế đổi mới, những gì anh viết ra nếu bị coi là cũ kĩ sẽ khôngcó chỗ đứng trong lòng bạn đọc, vì thế nỗ lực cách tân và làm mới trở thànhtuyên ngôn trong sáng tác của họ. Theo đó, nghệ thuật trần thuật trong tácphẩm được đề cao hơn bao giờ hết, nó là “sự trình bày liên tục bằng lời văncác chi tiết, sự kiện, tình tiết, quan hệ, biến đổi về xung đột và nhân vật mộtcách cụ thể, hấp dẫn, theo một cách nhìn, cách cảm nhất định” Trần ĐìnhSử. Trong cấu trúc tác phẩm văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng thìtrần thuật bao gồm các yếu tố cấu thành nên một tác phẩm hoàn chỉnh, đồngthời cũng tạo nên một “chất” khác lạ để phân biệt sáng tác của người này vớingười khác, góp phần tạo nên cái “tầm” của nhà văn. Nhà văn nếu lựa chọnhình thức trần thuật phù hợp sẽ đem lại hiệu quả trong cách truyền tải nộidung, tư tưởng của tác những lí do trên, tìm hiểu Phương thức trần thuật của truyện ngắnthế sự - đời tư trong văn học Việt Nam từ sau 1986 chính là một cách để phântích, đánh giá đầy đủ những đặc điểm, thành tựu của truyện ngắn Việt Namthời kì đổi mới trên các phương diện đối tượng, nội dung phản ánh và hìnhthức nghệ thuật. Bên cạnh đó chúng tôi mong muốn kết quả nghiên cứu củaluận án này sẽ là những tài liệu tham khảo có giá trị thực tiễn đối với công tácnghiên cứu và giảng dạy ở các trường đại học, cao đẳng và phổ Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận Mục đích nghiên cứuTìm hiểu, đánh giá đặc điểm phương thức trần thuật của truyện ngắnthế sự - đời tư trong văn học Việt Nam từ sau 1986 để khẳng định sự thống3nhất biện chứng giữa đối tượng, nội dung biểu hiện với phương thức thể hiệntrong thể loại truyện ngắn, khẳng định rõ thêm thành tựu của văn học ViệtNam thời kì đổi Nhiệm vụ nghiên cứuĐể đạt được mục đích trên, luận án thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau- Đưa ra quan niệm về truyện ngắn thế sự - đời tư từ góc nhìn của líthuyết tự sự học hiện đại, từ sự khu biệt giữa truyện ngắn thế sự - đời tư vớicác khuynh hướng truyện ngắn khác như truyện ngắn theo khuynh hướng sửthi, truyện ngắn theo khuynh hướng triết Chỉ ra những cơ sở cho sự phát triển của truyện ngắn theo khuynhhướng thế sự - đời tư, tái hiện diện mạo của truyện ngắn theo khuynh hướngnày trong văn học Việt Nam từ sau Phân tích những đặc điểm của phương thức trần thuật qua các phươngdiện như điểm nhìn trần thuật, cách tổ chức tình huống, kết Phân tích những đặc điểm của phương thức trần thuật qua ngôn ngữvà giọng điệu trần Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận Đối tượng nghiên cứuLuận án của chúng tôi tập trung nghiên cứu thể loại truyện ngắn trongvăn học Việt Nam hiện đại từ sau 1986 đến nay. Từ những khảo sát trênthực tế tác phẩm, chúng tôi phân loại truyện ngắn thành 3 khuynh hướng sửthi, thế sự - đời tư và triết luận. Cảm hứng sáng tác chủ đạo là tiêu chí đểchúng tôi phân loại truyện ngắn thành các khuynh hướng như vậy. Trong đóchúng tôi đặc biệt quan tâm tìm hiểu sự vận động và phát triển của truyệnngắn thế sự - đời tư, lí giải những đặc điểm riêng của thể tài truyện ngắn nàytrên cơ sở những lí thuyết chung về thể loại. Luận án tập trung vào phươngthức trần thuật bao gồm điểm nhìn trần thuật, tổ chức tình huống, kết cấu,ngôn ngữ và giọng điệu trần Phạm vi nghiên cứuThực hiện đề tài này, chúng tôi dành sự quan tâm đến một số tập truyệnngắn, tuyển tập truyện ngắn đã được xuất bản của các nhà văn tiêu biểu nhưNguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư,Nguyễn Thị Thu Huệ... và một số cây bút trẻ có truyện ngắn đạt giải từ sau1986 đến nay đã được in trong các tuyển ra, trong quá trình thực hiện đề tài, để thấy được sự vận động vàphát triểnphát triển của nó trong mấy mươi Phương pháp thống kê - phân loạiPhương pháp này được sử dụng trong quá trình khảo sát các tác phẩmtruyện ngắn thế sự - đời tư tiêu biểu từ sau 1986 nhằm có những cứ liệu xácđáng cho các luận Đóng góp mới về khoa học của luận án- Luận án cung cấp cái nhìn hệ thống về truyện ngắn Việt Nam giaiđoạn sau 1986 trong bước chuyển của lịch sử văn học, góp phần khẳng địnhmối quan hệ biện chứng giữa nội dung phản ánh, kiểu nhân vật với phươngthức trần thuật trong thể loại Luận án là công trình đầu tiên tìm hiểu và phân tích một cách tươngđối toàn diện, có hệ thống về đặc điểm phương thức trần thuật của truyệnngắn viết theo khuynh hướng thế sự - đời tư trong văn xuôi Việt Nam từsau Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận Ý nghĩa lí luậnBằng việc phân tích phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đờitư trong văn học Việt Nam từ sau 1986, luận án góp phần làm sáng tỏ ý nghĩacủa lí thuyết tự sự học hiện về mặt cấu trúc loại hình, từ việc phân tích, đánh giá truyện ngắnthế sự - đời tư luận án góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ giữa quan niệmnghệ thuật về hiện thực, con người với các phương diện thuộc thuộc phươngthức trần thuật của thể Ý nghĩa thực tiễnVới đề tài này, luận án đã khảo sát, khái quát, tổng kết bước đầu cáckhuynh hướng truyện ngắn Việt Nam từ sau 1986 trong đó nổi bật là khuynhhướng thế sự - đời tư. Từ đó, làm sáng tỏ sự vận động, phát triển, thành tựu vàhạn chế của thể loại truyện ngắn trong văn học Việt Nam hiện cạnh đó, luận án có thể trở thành tài liệu tham khảo cho nhữngngười làm công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập, những ai quan Cấu trúc của luận ánNgoài phần Mở đầu và Kết luận, Luận án có nội dung chính gồm 4chương như sauChương 1 Tổng quan tình hình nghiên cứuChương 2 Truyện ngắn thế sự - đời tư trong sự vận động, pháttriển của văn học Việt Nam từ sau 1986Chương 3 Điểm nhìn trần thuật, tổ chức tình huống và kết cấutrong truyện ngắn thế sự - đời tư từ sau 1986Chương 4 Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật của truyện ngắn thếsự - đời tư từ sau 19867Chương 1TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨUTừ điển thuật ngữ văn học định nghĩa “Truyện ngắn là tác phẩm tự sựcỡ nhỏ. Nội dung của truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đờisống đời tư, thế sự hay sử thi nhưng cái độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắnđược viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ” [94; hành cùng sự phát triển của xã hội, truyện ngắn là một trongnhững thể loại có lịch sử phát triển lâu dài và phức tạp. Sự biến động của xãhội qua từng thời kì lịch sử phát triển của loài người kéo theo sự vận động vàbiến đổi của truyện ngắn thế giới nói chung, truyện ngắn Việt Nam nói đầu thế kỉ XX đến nay, truyện ngắn hiện đại Việt Nam có những thay đổitheo hướng tích cực để thích ứng với sự đổi thay của thời đại, đặc biệt từ thờikì sau 1986, nó đã chứng tỏ là một thể loại có khả năng dung hòa được vớinhịp sống hối hả và bao quát được những vấn đề đặt ra trong xã hội ngày Quan niệm chung về phương thức trần thuật trong truyệnngắn thế sự - đời Khái niệm truyện ngắn thế sự - đời tưDo tác động của hoàn cảnh chiến tranh, nội dung ưu tiên hàng đầu trongcác tác phẩm văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 là những biến cố lịch sửtrọng đại, nhiệm vụ của đời sống chính trị. Khuynh hướng sử thi vì thế nổi lênnhư một khuynh hướng tiêu biểu và duy nhất của văn học giai đoạn này. Sauđổi mới, văn xuôi từng bước thoát ra khỏi áp lực của “chủ nghĩa đề tài” bằngkinh nghiệm cá nhân đột phá vào các vùng hiện thực mới, chủ quan hóa cáchnhìn đối với những hiện thực vốn quen thuộc. Giá trị tác phẩm bây giờ khôngcòn phụ thuộc vào đề tài nữa mà do cách xử lí nghệ thuật của nhà văn quyếtđịnh. Tương ứng với các mảng hiện thực lớn cùng cảm hứng sáng tác của nhàvăn là những khuynh hướng sử thi, thế sự - đời tư và triết luận. Trong luận ánnày, chúng tôi đặc biệt dành sự quan tâm đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu truyện8ngắn thế sự - đời tư, lí giải những nguyên nhân hình thành, phát triển và sứchút mạnh mẽ của khuynh hướng này đối với các nhà sáng điển Tiếng Việt Hoàng Phê chủ biên định nghĩa thế sự là “việcđời”. Theo cách hiểu khái quát đó truyện ngắn thế sự là truyện ngắn viết vềcuộc sống đời thường, về thế thái nhân tình, về con người của thực truyện ngắn viết theo khuynh hướng này chú ý khẳng định giá trị thẩmmĩ của cái đời thường, khám phá mọi phức tạp, éo le và cả cái cao quý trênhành trình đi tìm sự sống và hạnh phúc của con người. Thế sự làm cho truyệnngắn giàu tính thời sự, mở rộng phạm vi phản ánh của hiện thực đời là một thể tài đã có truyền thống trong lịch sử văn học dân tộc. Từ cácbậc đại thi hào xưa như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến đãkhéo léo đưa vào trong sáng tác của mình bức tranh xã hội đương thời với sựthối nát của giai cấp thống trị và nỗi bi thương của những người dân nghèokhổ. Khuynh hướng này chỉ bị chững lại những năm 1945 - 1975 do văn họcdành sự ưu tiên cho những tác phẩm mang khuynh hướng sử thi, phù hợp vớihoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ. Sang đến giai đoạn 1975, cảm hứng này tiếptục được “phục sinh” và có sức lan tỏa mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Bàn về thếsự là bàn đến các nội dung đặc tả bức tranh hiện thực đời sống muôn mặthiện thực lớn - cuộc sống lao động kiến thiết và khôi phục đất nước; hiệnthực nhỏ - cuộc sống hàng ngày của mỗi con người đồng thời đặc sắc củanhững sáng tác viết theo khuynh hướng này còn ở chỗ nó phát hiện ra nhữngkhiếm khuyết trong cơ chế xã hội thời mở cửa, dóng lên hồi chuông cảnh báokịp thời qua những mảnh hiện thực bị cắt rời, nham tư hay đời sống cá nhân được hiểu là “cuộc sống của một cá nhân,đặc biệt được xem như toàn bộ sự lựa chọn cá nhân góp phần nhận dạng tínhcách một người” Theo Từ điển Wikipedia tiếng Việt. Truyện ngắn mang cảmhứng đời tư là truyện ngắn về số phận con người cá nhân. Nó hướng đến đờisống tinh thần phong phú, phức tạp của con người với những ham mê, dục9vọng thường tình, những khắc khoải về số phận, những cảm xúc gần gũi, đờithường. Những tác phẩm thuộc khuynh hướng này thường lấy đề tài trực tiếptừ đời sống hiện tại. Điểm tựa cho kết cấu không phải là các biến cố lịch sửmà là những chuyện hàng ngày, những quan hệ nhân sinh muôn thuở, nhữngứng xử có tính phổ biến hay đột biến của con người. Qua đó nhà văn săn tìmý thức về nhân cách. Con người cá nhân, có lẽ, đã xuất hiện trong các thiphẩm của các thi nhân từ rất lâu và có thể xem giai đoạn 1930 - 1945 với sựxuất hiện của phong trào Thơ mới đã đánh dấu sự thức tỉnh và ý thức về bảnthể mạnh mẽ nhất “Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất - Không có chi bè bạnnối cùng ta” Xuân Diệu. Giai đoạn 1945 - 1975 do hoàn cảnh đặc thù conngười cá nhân chìm khuất nhường chỗ cho con người cộng đồng, lịch sử gọitên những người anh hùng mang những nét đẹp thời chiến trận, sử thi phủ lêncác sáng tác văn học tấm áo choàng của lịch sử, số phận của mỗi cá nhân nhưmột lẽ tất yếu, trùng khít với số phận của cộng đồng. Câu hỏi “ta vì ai?” vì thếđược ưu tiên hàng đầu. Khi cuộc sống trở về nhịp quay bình thường như nóphải có, văn học trở về với đời sống cá nhân đó là một quy luật tất yếu. Vănhọc sau 1975 lấy con người làm tâm điểm soi chiếu lịch sử. Con người từđiểm nhìn lí tưởng hóa được đặt vào điểm nhìn thế sự, đời tư. Dòng chảy đờithường ở thời đại ý thức cá nhân phát triển tạo cho con người một diện mạomới; phong phú, phức tạp, nhiều bí ẩn và nhà văn trong nỗ lực khám phá,chiếm lĩnh đời sống nhận ra mỗi cá thể là “một tiểu vũ trụ” không thể biết hết,không thể biết trước. Để con người hiện diện với các quan hệ nhân sinh cụthể, nhiều chiều, đó là cách xử lí phổ biến. Con người đời thường với nhữngẩn mật, khuất lấp hiện lên muôn màu muôn vẻ thực trạng nhân tính suy thoái,con người ham mê dục vọng tầm thường, con người chìm sâu vào hào quangquá khứ... nhưng tiêu biểu và nổi bật hơn cả chính là con người tìm được cáchkhẳng định giá trị tự thân của mình, nói khác đi là con người có giá trị tự được xem như là một trong những phát hiện mang tính nhân bản về con10người của các nhà văn giai đoạn những điều đã trình bày ở trên có thể hiểu truyện ngắn thế sự - đờitư là truyện ngắn viết về cuộc sống hàng ngày và số phận của mỗi con ngườicá nhân trong dòng chảy vô thường ấy. Sáng tác theo khuynh hướng thế sự đời tư, người cầm bút xem cuộc sống hàng ngày đang diễn ra là đối tượngsinh động và thú vị, số phận con người cá nhân là một đích đến của vănchương. Nói cách khác, nó chứng tỏ tinh thần nhân bản và ý thức dân chủ củanhà văn. Sự phát triển của khuynh hướng văn học này gắn với những thay đổitrong quan niệm về đối tượng, chức năng của văn chương, những thay đổitrong hứng thú sáng tác của nhà văn và tâm thế tiếp nhận của công tài này không phải đến văn học sau 1975 mới có mà nó đã manh nha hìnhthành thậm chí có thời kì phát triển đạt được nhiều thành tựu trước đó. Tuynhiên sự vận động của thể tài truyện ngắn này thăng giáng theo nhịp chuyểndời của lịch sử và để đến thời kì sau đổi mới, hội tụ đầy đủ các yếu tố thuậnlợi, nó một lần nữa được phục hồi và hứa hẹn sẽ có những thành tựu đángmong luận án, chúng tôi sử dụng khái niệm truyện ngắn thế sự - đời tưnhư một công cụ khảo sát diện mạo một thể loại văn học dưới góc nhìn thểtài. Cho nên, truyện ngắn thế sự - đời tư trước hết cũng mang những đặc trưngthi pháp của thể loại truyện ngắn, một thể loại tự sự hiện đại độc đáo. Thứnữa, nó khai thác thể tài thế sự - đời tư dưới một góc nhìn, cách tiếp cận riêng,mang hơi thở của lịch sử, thời đại, những tìm tòi, sáng tạo và tư tưởng riêngcủa nhà văn. Xét đến cùng, truyện ngắn thế sự - đời tư cũng là một loại hìnhdiễn ngôn tự sự gắn liền với thế giới quan, nhân sinh quan, sản phẩm của mộthình thái ý thức xã hội, lịch sử mà nền tàng là tinh thần dân chủ, nhân văn, đốithoại, hoài nghi. Thực tế đây không hẳn là một khái niệm mới mà chúng tôi đinghiên cứu một thể loại trong tiến trình lịch sử văn học, chịu ảnh hưởng trongcác tiêu chí phân chia của trường phái Pospelov. Với khái niệm công cụ này,11chúng tôi sẽ có dịp tìm hiểu kỹ hệ thống thi pháp của thể tài truyện ngắn nàyở nhiều cấp độ, phương diện như trần thuật, kết cấu, ngôn ngữ, để thấy nhữngthành tựu, đóng góp, cả hạn chế, nhược điểm, nhưng quan trọng hơn là sự vậnđộng, phát triển của thể tài trong lịch sử văn học và sự sáng tạo của các nhàvăn đổi Quan niệm chung về phương thức trần thuậtVới bất cứ tác phẩm nào thuộc loại hình tự sự truyện thì trần thuậtluôn là yếu tố then chốt, phương diện cơ bản. Theo đó, trần thuật thường đượchiểu là “việc giới thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sựkiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của một người trần thuật nhất định”[94; Cho nên, có thể nói rằng trần thuật chính là việc tổ chức tácphẩm tự sự theo một điểm nhìn, cách nhìn nhất định. Trần thuật gắn liền vớitất cả các yếu tố trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm như bố cục, kết cấu,tổ chức không gian, thời gian, ngôn ngữ, giọng điệu. Nó là một hệ thống tổchức phức tạp “nhằm đưa hành động, lời nói của nhân vật vào đúng vị trí củanó để người đọc có thể lĩnh hội theo đúng ý định tác giả mối quan hệ giữacâu chuyện và cốt truyện” [94; trần thuật bao giờ cũng gắn với một người kể và điểm nhìn nhấtđịnh. Một tác phẩm tự sự có thể được kể theo người kể chuyện ở ngôi thứ ba,đứng ngoài quan sát, ngôi thứ hai hoặc ngôi thứ nhất, tự thuật. Điểm nhìn trầnthuật có thể thay đổi linh hoạt, đan cài, di chuyển, luân phiên trong một tácphẩm. Có nhiều cách trần thuật gắn với người trần thuật như trần thuật ở ngôithứ ba khách quan, trần thuật theo ngôi thứ nhất do một nhân vật trong tácphẩm đảm nhiệm, trần thuật bằng dòng ý thức, độc thoại nội tâm. Mỗi điểmnhìn này gắn với một tọa độ không gian, thời gian tạo thành trường nhìn, thểhiện cách nhìn, cách cảm, lập trường, tư tưởng của người trần thuật và của tácgiả. Mỗi sự thay đổi sẽ đem đến một sắc thái, bình diện miêu tả, tái hiện, haytái tạo thế giới khác nhau, đem đến cảm xúc, ý nghĩa đa tầng lớp. Ngoài ra,12cách thành phần trần thuật còn gồm không gian, thời gian, giọng điệu, ngônngữ, tiết tấu, nhịp điệu… Những yếu tố này tương tác, kết hợp hài hòa tạo nêncấu trúc trần thuật nghệ thuật trong tác phẩm tự sự. Tuy nhiên, hai yếu tố thenchốt liên quan đến phương thức trần thuật là người kể chuyện và điểm nhìntrần kể chuyện hiểu theo nghĩa đen chính là người kể câu chuyện chongười đọc nghe. Đây là nhân vật trung tâm của tự sự vì trên danh nghĩa toànbộ văn bản tự sự là sản phẩm của họ tạo ra. Bản thân người kể chuyện với cácyếu tố về chỗ đứng, điểm nhìn, cách thức kể lại câu chuyện sẽ tác động mạnhđến cấu trúc truyện kể cũng như mạch truyện trong tác phẩm. Người kểchuyện có vị trí, vai trò đặc biệt trong nghệ thuật tự sự. Nó chính là mộtphương diện quan trọng thể hiện chủ thể, bởi thái độ của người kể chuyện vớithế giới câu chuyện được kể thống nhất, hoặc ít nhất cũng thống nhất ở mộtphần, một phương diện nào đó với quan điểm, với lập trường tư tưởng của tácgiả. Vì vậy, mỗi loại hình diễn ngôn tự sự đều phải xây dựng một người kểchuyện đặc thù để kể câu chuyện mà chủ thể muốn gửi tới đối tượng tiếpnhận. từng nói “tự sự là cái có thể chuyển ngữ được mà không phảichịu một tổn hại cơ bản nào”, và vai trò chuyển ngữ ấy đặt lên người kểchuyện, điểm khác biệt cơ bản của tác phẩm tự sự với một bài thơ trữ tình haymột diễn ngôn triết hệ thống trần thuật của một diễn ngôn tự sự, mối liên hệ giữa cácyếu tố người kể chuyện - nhân vật - người nghe được thiết lập trong mộtchỉnh thể của chiến lược giao tiếp thể loại. Mối quan hệ hoàn chỉnh của bayếu tố đã đặt ra một vấn đề khác gắn bó chặt chẽ với người kể chuyện - vấnđề điểm nhìn. Mỗi nhân vật người kể chuyện bao giờ cũng gắn với một vị trí,một chỗ đứng nhất định trong không, thời gian, trong mô hình cấu trúc truyệnkể của thể loại, tạo nên những điểm nhìn khác nhau. Như vậy, điểm nhìn nghệthuật gắn liền với người kể chuyện. Nó thể hiện rõ vị trí của người kể với câu13chuyện được kể, từ đó xác định quyền năng của người kể chuyện trong tácphẩm. Do đó, điểm nhìn nghệ thuật gắn với cái nhìn của chủ thể, mối quantâm của anh ta với các vấn đề được kể, tạo ra cái nhìn nghệ thuật cho tácphẩm. Mỗi điểm nhìn thể hiện một vai, vị thế phát ngôn nào đó của chủ nghệ thuật tự sự, vấn đề điểm nhìn thuộc về các kỹ thuật, nguyên tắc tựsự. Nó là một trong những vấn đề then chốt của kết cấu tác phẩm, “cung cấpmột phương diện để người đọc nhìn sâu vào cấu tạo nghệ thuật và nhận ra đặcđiểm phong cách ở trong đó” [94; Tuy nhiên, nhìn từ hệ hình cấu trúcvăn bản tự sự, nghệ thuật kể chuyện có ba điểm nhìn điểm nhìn nhân vật,điểm nhìn người kể chuyện và điểm nhìn của người đọc. Khi truyện kể trởnên phức tạp hơn thì điểm nhìn thứ tư nảy sinh từ sự khác biệt rõ rệt giữangười kể chuyện và tác tác phẩm tự sự, điểm nhìn có ý nghĩa quan trọng, là yếu tố cơbản nhất tạo nên phương thức trần thuật của văn bản, là phương tiện để tổchức, kết cấu văn bản nghệ thuật. Do đó, dựa vào việc sử dụng điểm nhìn màngười ta phân chia ra nhiều phương thức tự sự/ trần thuật khác nhau. Theo Từđiển thuật ngữ văn học thì “phương thức trần thuật được cấu thành bởi sựphối hợp giữa tiêu cự trần thuật và cách kể” [94; Tiêu cự trần thuật cóthể chia thành hai loại trần thuật biết hết - điểm nhìn toàn tri vầ trần thuậttheo điểm nhìn nhân vật - điểm nhìn hạn tri. Còn tư cách kể gắn với người kểchuyện nên có thể chia thành người kể lộ diện kể theo ngôi thứ nhất hoặcngười kể ẩn tàng kể theo ngôi thứ ba hoặc ngôi thứ hai.Có rất nhiều quan niệm chia phương thức trần thuật thành nhiều loạihình khác nhau. Song trên những điểm dị biệt vẫn có nét đại đồng là chủ yếudựa vào cách kể ở ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba, gắn với cái nhìn toàn tri vàhạn tri, người kể lộ diện và ẩn tàng. Theo đó, nhìn chung, chúng ta có thể chiathành một số phương thức sau1. Kể theo ngôi thứ ba, khách quan, người kể biết hết, tiêu cự Kể theo ngôi thứ ba, người kể biết hết, có bình Kể theo ngôi thứ ba, chủ quan do vận dụng điểm nhìn của nhân vậttiêu cự bên trong.4. Kể theo ngôi thứ nhất của người kể bàng quan, đứng Kể theo ngôi thứ nhất có bình Kể theo ngôi thứ nhất mang điểm nhìn của người trong cuộc [94; thân sự phân chia thành các phương thức trần thuật trên đây đã thểhiện quá trình vận động, phát triển của thể loại tự sự trong lịch sử văn sát nghệ thuật tự sự trong tiến trình văn học chúng tôi nhận thấy phươngthức trần thuật theo ngôi thứ ba xuất hiện khá sớm, từ trong văn học dân gianvà trung đại, còn phương thức trần thuật theo ngôi thứ nhất, từ điểm nhìn bêntrong xuất hiện muộn hơn, bắt đầu từ các tác phẩm văn học hiện đại. Ngaytrong cùng một phương thức trần thuật theo ngôi thứ ba thì các tác phẩm tự sựdân gian, trung đại chủ yếu theo các phương thức 1 và 2, phương thức 3 đếnthời cận, hiện đại mới có. Bởi chỉ khi xuất hiện ý thức cá nhân mạnh mẽ, rõrệt, biểu hiện trực tiếp, cụ thể thì điểm nhìn bên trong mới được sử dụng trongnghệ thuật tự sự, để kể truyện đời và truyện của mình bằng góc nhìn, kinhnghiệm, tư tưởng của cá nhân. Khái niệm “tiêu cự” trong phương thức trầnthuật giúp khu biệt được đặc trưng của từng thời kỳ, giai đoạn văn học khácnhau có cùng một hình thức trần thuật ví dụ như việc trần thuật theo ngôi thứba trong văn học trung đại và hiện Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, đời tưTìm hiểu phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư, chúngtôi vẫn sử dụng khái niệm phương thức trần thuật và các hình thức phươngthức trần thuật của tự sự nói chung. Tuy nhiên, khảo sát một thể loại tự sự cỡnhỏ là truyện ngắn, gắn với thể tài thế sự - đời tư trong bối cảnh văn học ViệtNam những năm đổi mới từ sau 1986, chúng tôi xem xét những phương16thức trần thuật đặc trưng được sử dụng, lý giải cặn kẽ hơn về các phương thứctrần thuật đó. Từ đó, chúng tôi sẽ bước đầu nhận diện đặc trưng thể loại gắnvới thể tài sẽ chi phối đến hệ thống thi pháp, ngôn ngữ nghệ thuật, mà với tựsự thì quan trọng bậc nhất vẫn là trần thuật, sự kể, cách kể, chiến lược cạnh đó, chúng tôi cũng mở rộng khảo sát, tìm hiểu mọi yếu tố chiphối đến các phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư như tìnhhuống/ sự kiện, kết cấu, ngôn ngữ, giọng điệu… để có cái nhìn toàn tri, đachiều, thấu đáo, đặt phương thức trần thuật trong chỉnh thể tổ chức nghệ thuậtcủa tác phẩm tự sự. Do đó, khái niệm phương thức trần thuật của truyện ngắnthế sự - đời tư được hiểu linh động, mang tính chất công cụ như một cách tiếpcận thể loại văn học này trong giai đoạn văn học đổi mới. Từ đó, chúng tôi đikhu biệt, chỉ ra những đặc điểm riêng, mang tính đặc thù trong nghệ thuật trầnthuật của truyện ngắn thế sự - đời tư với các kiểu thể tài khác như lịch sử, khubiệt trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư trong giai đoạn văn học đổi mớisau 1986 với truyện ngắn nói riêng và các thể loại tự sự nói trong trong giaiđoạn văn học sử thi thế, chúng tôi không định nghĩa duy danh hay đưa ra khái niệm thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư là yếu tố hạt nhân, đặctrưng nổi bật để chúng tôi tìm hiểu, khảo sát, diễn giải và tái hiện một phầndiện mạo của thể loại trong sự vận động của một giai đoạn văn học có nhiềubiến đổi mang tính bước ngoặt. Và việc đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu cácphương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư thời kỳ từ sau 1986 đếnnay cũng là một cách thay đổi tọa độ, điểm nhìn, phương pháp tiếp cận cáchiện tượng trong lịch sử văn học không đi theo lối mòn của lý thuyết phảnánh mà tìm hiểu bề sâu cấu trúc thể loại trong sự phát triển, thay đổi. Do đó,trần thuật là một cách thức đặc sắc, đặc thù và hữu dụng nhất để tái tạo hiệnthực trong các truyện ngắn, thể loại vẫn được coi là khái quát thế giới từ mộtlát cắt, khoảnh Tình hình nghiên cứu phương thức trần thuật trong văn xuôiViệt Nam từ sau 1986Vào những năm đầu của thế kỉ XX, phương thức trần thuật trong cáctác phẩm tự sự đã được giới nghiên cứu nước ta quan tâm và chú ý. Theo cáchhiểu truyền thống mà Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa, phươntình huống, kết cấu; ngôn ngữvà giọng điệu trần thức trần thuật là một vấn đề quan trọng của lý thuyết tự sự đãvà đang thu hút và nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong vàngoài nước. Ở đây, trong công trình nghiên cứu này, chúng tôi xin được đềcập đến một vài công trình nghiên cứu của các lí thuyết gia nổi tiếng có ýnghĩa định hướng về mặt lí thuyết đối với công trình của chúng số nghiên cứu ngoài nướcTrước hết, ở nước ngoài, người có công đầu trong việc nghiên cứu nghệthuật tự sự phải kể đến là một nhà nghiên cứu người Anh. Trongtác phẩm Nghệ thuật văn xuôi, ông đã đưa ra bốn hình thức trần thuật cơ thức trần thuật thứ nhất có tên gọi “toát yếu toàn cảnh” có đặc điểm làsự xuất hiện của người trần thuật toàn tri, có quyền quyết định số phận cácnhân vật của mình. Hình thức trần thuật thứ hai có tên gọi là “người trầnthuật kịch hóa” có đặc điểm người trần thuật đứng ở ngôi thứ nhất xưng “tôi”kể lại câu chuyện mà mình được chứng kiến hoặc chính bản thân mình đã trảiqua. Hình thức trần thuật thứ ba có tên gọi “ý thức kịch hóa” cho phép miêutả đời sống nội tâm phức tạp, sự giao tranh những xúc cảm tâm lí của nhânvật. Cuối cùng là hình thức trần thuật thứ tư có tên “kịch thực thụ” gần vớitrình diễn sân khấu bởi vì ở đây trần thuật được đưa ra dưới dạng một cảnhdiễn trên sân khấu, người đọc chỉ có thể thấy được nhân dạng và các cuộc đốithoại của nhân vật mà không hiểu gì về đời sống nội tâm. Và trong quan niệmcủa mình, coi hình thức trần thuật này là hình thức hoàn hảo trong tác phẩm Điểm nhìn trong tiểu thuyết đã đưa ra mộtsự phân loại tương đối chi tiết về người kể chuyện. Thứ nhất là hình thứcngười kể chuyện “toàn năng biên tập”, người kể chuyện xuất hiện trong vai“nhà xuất bản - nhà biên tập”, họ biết tất cả và có khả năng xâm nhập vào câuchuyện dưới dạng những trao đổi về cuộc sống, phong tục và đạo đức. Thứhai là hình thức người kể chuyện “toàn năng trung tính”, không có sự canthiệp trực tiếp của người kể chuyện. Thứ ba là hình thức trần thuật “tôi lànhân chứng”, người kể chuyện kể từ ngôi thứ nhất, là một nhân vật trongtruyện nhưng không tham gia vào câu chuyện mà chỉ hiểu biết ít ỏi về cácnhân vật. Hình thức trần thuật thứ tư là hình thức “tôi là vai chính”, người kểchuyện là nhân vật chính trong câu chuyện. Thứ năm là hình thức trần thuật“toàn năng cục bộ đa bội”, người kể chuyện đứng bên ngoài câu chuyện, căncứ vào điểm nhìn của nhiều nhân vật để kể chuyện. Thứ sáu là hình thức trầnthuật “toàn năng cục bộ đơn bội”, người kể chuyện đứng bên ngoài và dựavào điểm nhìn của một nhân vật trong truyện để kể. Thứ bảy là hình thức trầnthuật theo “mô thức kịch” và cuối cùng là trần thuật theo kiểu “camera”. Ở20hai hình thức sau này hầu như người kể chuyện chỉ khách quan ghi lại các sựviệc, hiện tượng mà không tỏ bất cứ một thái độ chủ quan một nhà nghiên cứu Liên Xô trong cuốn Dẫn luận nghiêncứu văn học cũng bàn về vị trí người trần thuật trong nghệ thuật trần thuật đãphát biểu “Trần thuật tự sự bao giờ cũng được tiến hành từ phía một ngườinào đó. Trong sử thi, tiểu thuyết, cổ tích, truyện ngắn trực tiếp hay gián tiếpđều có người trần thuật” [136; Theo Pospelov thì “người trần thuật làloại người môi giới các hiện tượng được miêu tả và người nghe hoặc ngườiđọc là người chứng kiến và người cắt nghĩa các sự việc xảy ra”. Ở đây,Pospelov đã đặc biệt quan tâm đến vai trò của người kể chuyện trong nghệthuật trần thuật. Ông cũng cho rằng có hai kiểu người trần thuật phổ biến“Hình thức thứ nhất của miêu tả tự sự là trần thuật từ ngôi thứ ba không nhânvật hóa mà đằng sau là tác giả. Nhưng người trần thuật cũng hoàn toàn có thểxuất hiện trong tác phẩm dưới hình thức một cái “tôi” nào đó” [136; số nghiên cứu trong nướcBên cạnh các nhà nghiên cứu nước ngoài, các nhà nghiên cứu trongnước cũng dành sự quan tâm đến nghệ thuật trần thuật . Trong cuốn Tự sự họctập 1, Lại Nguyên Ân với bài viết “Về việc mở ra môn Trần thuật học trongngành nghiên cứu văn học ở Việt Nam” đã đồng nhất trần thuật học với tự sựhọc và cho rằng “Thực chất hoạt động trần thuật là kể, là thuật; cái đượcthuật, được kể, trong tác phẩm văn học tự sự là chuyện” [141; và“Trần thuật học hiện đại quan niệm tác phẩm nghệ thuật như một hiện tượnggiao tiếp nghệ thuật” [141; Đình Sử trong Từ điển thuật ngữ văn học đã đưa ra ý kiến khá hệthống và sâu sắc về vấn đề này. Nhà nghiên cứu cho rằng “Người trần thuậtlà một nhân vật hư cấu hoặc có thật, mà văn bản tự sự là do hành vi ngôn ngữcủa anh ta tạo thành” [94; Ông chỉ ra năm chức năng của người trầnthuật “1 chức năng kể chuyện, trần thuật; 2 chức năng truyền đạt, đóng vai21
phương thức trần thuật